Sưu tầm online
LỜI NÓI ĐẦU
Tuổi trẻ vốn rất hào hiệp và
thích làm chuyện phi thường. Những sách Võ Hiệp phải được viết ra để mà giúp đỡ
các em phát triển tinh thần mã thượng, trong cái ý nghĩa cứu khổn, phò nguy của
sự thực hiện bác ái, công bằng.
Rất tiếc từ trước đến nay loại
Võ Hiệp viết cho các em không nhiều. Những tác phẩm loại này dành cho người lớn
càng ngày càng có tính cách nuông chiều thị hiếu thấp hèn hoặc còn giữ nguyên
những lối suy tưởng cũ kỹ.
Tiếng Sấm Dương Châu ra đời
nhằm mục đích phản ứng lại loại Võ Hiệp chứa đầy tính cách hoang đường và những
tinh thần anh hùng chủ nghĩa lỗi thời, những kiểu phiêu lưu vong mạng. Tác phẩm
cố gắng phát huy một quan niệm Võ Hiệp hoàn toàn mới mẻ, trong đó bản lĩnh anh
hùng và quan niệm sống của họ đều có tính cách nhân đạo và dân chủ hơn. Tất
nhiên trong sự phản ứng lại một tình trạng Võ Hiệp quá thời, người viết không
thể nhất đán tách rời khỏi những công thức quen thuộc đã được chấp nhận từ trước
về loại truyện này, mà chỉ tìm cách tháo gỡ dần dần những kiểu phi thực trong
các tình tiết để mong do đó tìm một lối viết Võ Hiệp thích hợp và bổ ích hơn.
Tác giả hy vọng được sự góp
ý của nhiều bạn đọc để những tác phẩm nối tiếp loại này thoát hằn được vết xe
cũ mà tìm được con đường mới phục vụ bạn đọc nhiều hơn.
VŨ THIÊN LÝ
Chương 01
Miền Dương Châu xưa nay
không nghe nói đến anh hùng. Dân ở miền này ít học bởi vì nghèo đói quanh năm
cho nên anh hùng ở trong sử sách cũng không mấy khi được nhắc nhở đến. Dân
Dương Châu thích nói về chuyện mùa màng, chuyện gả cưới và chuyện ma chay, tống
táng. Ghét nhất là chuyện thuế khóa mà dân Dương Châu bàn tán cũng nhiều. Ngoài
ra, còn nhiều chuyện tế thần, tế thánh hàng tháng, hàng năm, kể hoài không hết.
Một ngày đầu thu năm ấy, ở
miền Dương Châu bỗng có chuyện lạ phát sinh.
Chuyện lạ khởi đầu từ Mã Đài
Sơn là một đỉnh núi cao nhất trong vùng. Tự nhiên từ trong lòng núi sâu thẳm bỗng
nghe vang rền chuyển động, ầm ĩ kéo dài rồi mặt đất cơ hồ muốn lung lay ngã sụp.
Phút chốc gió núi bừng bừng nổi dậy lông lốc kéo mây phủ kín bầu trời, chớp giật
sấm vang, rồi mưa trút xuống. Mưa càng lúc càng lớn và nước Dương Châu dâng cao
ngập cả ruộng đồng. Các dòng suối nhỏ bắt nguồn từ Mã Đài Sơn trở nên những
thác nước lớn cuồn cuộn tuôn tràn lôi theo bao nhiêu rêu rác, thân cây và cả
thú vật trong rừng dồn xuống nơi lòng sông rộng.
Đến ngày thứ năm thì cả đồng
ruộng Dương Châu chỉ là một bãi nước trắng giăng trải đến tận chân trời.
Qua ngày thứ sáu tiếng rền ở
trong lòng núi bỗng dứt và mưa ngớt giọt. Mực nước từ từ rút xuống, cánh đồng
tiêu điều bày ra trước mắt thiểu não của lớp dân quê.
Một sớm, Thiện Hải chèo chiếc
đò ngang trên sông Dương Châu nhìn thấy lờ mờ dưới dòng nước đục một khối to lớn,
đen sì. Rồi thình lình chiếc đò như bị sức đẩy vô hình nâng lên, xô tới, suýt bị
lật úp. Những người đi đò xanh mặt, kêu rú thất thanh. Đến khi nhìn thấy khối
đen to lớn quẫy mình dưới nước thì mọi người đều khiếp hồn nín lặng rồi cùng
lâm râm cầu nguyện cho qua tai nạn. Chỉ có Thiện Hải là cố bình tĩnh nắm vững
mái chèo đã qua bao năm nuôi sống đời gã, đưa thuyền vào bến. Đến nơi, trong
khi mọi người hơ hải tản mát chạy đi các ngả loan báo hiện tượng lạ lùng vừa thấy
ở dưới dòng sông, thì Thiện Hải vội cột thuyền, rồi đi vào xóm. Gã đi lầm lũi đầu
óc suy nghĩ lung lắm. Qua khỏi ngôi Miếu Sơn Thần, gã rẽ vào một ngõ hẹp, đến
nhà của Lý Khải Hòa. Chỉ có thằng con Khải Hòa là Khải Hùng độ mười hai tuổi
đang ngồi vá lưới trước sân.
Thiện Hải bèn hỏi :
- Cha mày đi đâu ?
Thằng bé cúi đầu chào xong,
đáp lại :
- Từ sớm cha tôi sang bên
nhà cụ Thiên Hộ.
Thiện Hải vội vàng băng rào
tìm sang nhà Thiên Hộ. Đến nơi thấy hai người đang ngồi trầm ngâm dưới gốc một
cây vông lớn ngoài vườn.
Khải Hòa hỏi :
- Đi đâu đó ? Không đưa đò
sao ?
Thiện Hải chào xong, lại ngồi
gần bên rồi mới ôn tồn trả lời :
- Không có cách gì đưa đò được
nữa.
Rồi gã thuật lại sự việc vừa
xảy trên sông. Gã tiếp :
- Tôi đến tìm anh thì nghe
cháu bảo anh đã sang bên cụ đây. Thực là may mắn, nếu không thì tôi rủ anh sang
hỏi ý kiến cụ rồi. Chẳng hay có việc gì mà cụ và anh trầm ngâm như thế ?
Cụ Thiên Hộ lim dim cặp mắt
già nua, trả lời :
- Ta với Khải Hòa nói về
chuyện thời tiết, mùa màng. Năm nay có địa chấn lớn, mưa lụt hư hao khá nhiều
ngũ cốc, e dân Dương Châu rồi phải đói nặng. Bây giở nghe ngươi kể chuyện, ta lại
biết rằng thủy quái đã theo nước lụt mà vào sông rồi. Ôi thôi, họa vô đơn chí.
Lúa đồng Dương Châu đã không gặt được mà cá dòng Dương Châu lại không bắt được,
dân quê lấy gì mà sống phen này !
Khải Hòa trợn mắt, mím môi
im không nói năng gì.
Khải Hòa là một nông dân lực
lưỡng và cũng giống như đa số người dân ở Mai Gia Trang, tuy anh sống về ruộng
đất nhưng vì gần sông nên cũng chài lưới và gặp những năm đói kém vẫn lên kiếm
củi trên rừng. Từ nhỏ, Khải Hòa mồ côi cha mẹ, phải đi ở mướn cho Vương phủ Thạch,
một người giàu có tại miền Dương Châu. Lớn lên, Khải Hòa không tiền cưới vợ, vẫn
sống một mình. Gặp năm được mùa trái cây, họ Vương cho Khải Hòa mang lên kinh
đô một thuyền lê, táo để làm quà tặng người thân. Khải Hòa có dịp ra chốn kinh
kỳ, ở nhờ nhà An Dương Hầu là chỗ thân tình với Vương phủ Thạch. Tại đây anh được
có dịp làm quen với một nô tì là nàng Bạch Tuệ, nhưng vì cùng trong cảnh ngộ
nghèo nàn nên họ không thể thành vợ chồng. Ba năm sau, kinh thành có loạn, gia
đình An Dương Hầu phải chạy trốn về quê tạm ẩn ở nhà họ Vương. Nàng Bạch Tuệ lại
gặp Khải Hoà. Hai người bầy tỏ nguyện vọng lên chủ của mình và cả hai đều được
như nguyện. Vương phủ Thạch nghĩ rằng cưới vợ cho Khải Hòa trong tình thế này
ông đỡ rất nhiều tốn kém, còn An Dương Hầu nhận thấy cho nàng Bạch Tuệ lấy chồng
mình sẽ có thêm một người lực lưỡng giúp việc. Được hai năm, Bạch Tuệ đẻ một đứa
con trai, và đặt tên là Khải Hùng. Qua năm thứ tư thì loạn kinh thành dẹp yên
và An Dương Hầu trong lúc trở về chốn cũ bắt nàng Bạch Tuệ đi theo. Còn Vương
phủ Thạch nhất định giữ Khải Hòa ở lại. Hai vợ chồng không dám cưỡng lại lệnh
trên, chỉ biết nhìn nhau mà khóc. Nàng Bạch Tuệ trao con cho chồng rồi đi theo
chủ. Từ đấy Khải Hòa không còn dịp nào lên kinh kỳ. Anh an phận nuôi con, thỉnh
thoảng chỉ mong gặp nàng trong giấc chiêm bao.
Cụ Thiên Hộ là người sống cô
độc và nghèo nàn. Cụ câu cá độ nhựt và đối xử tử tế với hết thảy mọi người. Cụ
từng trải việc đời, có nhiều kinh nghiệm vì trước kia cụ đã lưu lạc nhiều nơi,
làm được nhiều nghề. Những người nghèo khổ ở Mai Gia Trang khi gặp nguy khốn đều
tìm đến cụ Thiên Hộ như tìm một sự an ủi, một mối giải nguy.
Gã Thiện Hải ngồi im giây
lâu, nhìn Khải Hòa đang dồn nén trong sự bất bình rồi nói :
- Làm sao bây giờ ? Không thể
kiếm ăn ở trên đồng ruộng thì phải chạy xuống dòng sông, nay dòng sông lại bị
loài thủy quái chiếm đoạt biết chạy lối nào ? Năm nay chắc có sự gì kỳ lạ cho
nên phát sinh lắm điều quái đản, có phải thế không ?
Cụ Thiên Hộ đáp :
- Trời đất xưa nay đều biến
hóa theo lẽ bình thường và vô thường. Khi không còn sự điều hòa là đến những điều
ách biến, có gì là lạ ? Đất lở, trời long, mưa tuôn thì nước lớn. Nước lớn ngập
đầy thì thủy quái chạy rong, có gì lạ đâu ? Chỉ lạ một điều…
Khải Hòa vụt hỏi :
- Lạ điều gì ?
Cụ Thiên Hộ chậm rãi nói :
- Lạ một điều là con người cứ
chịu khổ mãi, không đẩy được núi không ngăn được sông, cam tâm khiếp sợ cả giống
thủy quái vô loài.
Rồi cụ đứng lên dõng dạc bảo
gã Thiện Hải :
- Ngươi là kẻ chứng kiến sự
xuất hiện của loài thủy quái, ngươi phải trình cho lý dịch phi báo gấp lên quan
trên để mà đối phó. Việc này liên quan đến sự sinh sống của ngươi và của nhiều
người, không nên chậm trễ.
Thiện Hải đáp :
- Nhưng liệu quan trên có
chiếu cố không ?
Khải Hòa cũng nói :
- Chỉ sợ khi quan chiếu cố
thì loài thủy quái đã lên ở trên đồng rồi.
Cụ Thiên Hộ đáp :
- Bổn phận của quan là phải
làm việc cho dân, nếu dân không cầu cứu vào quan thì nhờ cậy ai ? Chừng nào kẻ
bề trên bất lực thì kẻ bề dưới ra tay, có thế mà thôi.
Rồi cụ xua tay :
- Thiện Hải lo đi cho sớm,
chớ khá chần chờ. Đi đi, ta cũng liệu lấy việc ta.
Nói xong, cụ vội vã vào nhà
lấy gậy, lấy nón và đi ra ngõ.
Mười hôm sau, lệnh quan cũng
chưa xuống đến Dương Châu. Lý dịch nhiều phen chầu chực mà vẫn không gặp được
quan. Lần thứ nhất quan bận việc ngủ vì đêm vừa rồi quan phải thức rất khuya để
bàn việc đời với cô vợ trẻ. Lần thứ hai quan bận dự đám tiệc lớn thết đãi một bạn
đồng liêu nay đã thăng quan tiến chức. Lần thứ ba quan đang lao tâm khổ trí vì
một thế cờ của một đồng liêu chiếu bí nên không rảnh trí để bàn việc khác. Lần
thứ tư thì quan không có ở nhà. Cứ thế lý dịch hầu mãi và cứ tiếp tục gặp quan
bận rộn, nếu quan không khổ tâm vì bị kẻ khác chiếu bí thì cũng đang bận trí
chiếu bí kẻ khác, nếu không bận việc ăn uống thì cũng đang lo về chuyện vợ con.
Đến ngày thứ mười một thì quan Lệnh Trấn biết rằng có loài thủy quái xuất hiện
trên sông nhưng quên mất khu ấy là ở sông nào. Qua ngày mười hai quan mới sực
nhớ là miền Dương Châu đang có thủy quái. Biết chắc thủy quái không sao bò đến
tư thất của quan, nên quan cho rằng thủy quái là loại vô hại.
Trong khi ấy thì chợ búa ở
miền Dương Châu không có người đi. Đò ngang qua lại trên sông phải đành gác
mái. Những người thuyền chài thơ thẩn trên bờ ngơ ngác nhìn nhau. Từ sáng đến
chiều, ông cụ Thiên Hộ đội chiếc nón rách lê cây gậy tre lò dò đi dọc con sông
chú tâm theo dõi mọi sự xuất hiện của loài quái vật.
Dân Dương Châu sống trong
tình trạng chờ đợi, lo âu, dần dần cảm thấy hốt hoảng vì nạn đói đã lảng vảng đến
gần.
Một tối ông cụ Thiên Hộ lê gậy
đến nhà Lý trưởng Hà Huy. Ông cụ bảo :
- Mong ông hãy vì trăm dân
mà lên nói với quan trên giúp cho phương thế đối phó việc này.
Hà Huy, vì chợ búa mấy hôm
không nhóm, chẳng có cá ăn nên cứ ăn mãi thịt gà, lấy làm bực lắm, vừa xỉa răng
một cách hậm hực, vừa đáp.
- Chém cha cái loài thủy
quái ! Nó cứ cố tình ở mãi nơi đây đợi cho nuốt hết bao nhiêu tôm cá rồi mới đi
chắc ?
Ông cụ Thiên Hộ tiếp lời :
- Tôi xem cái thế nó còn ở
lâu chớ chẳng chịu rời bỏ đi nơi khác.
Ngày xưa, gặp năm đại hán
tôi đã thấy rõ con sông có nhiều hốc sâu có thể làm nơi sào huyệt rất tốt cho
loài thủy quái. Nay cứ theo cách ẩn hiện của nó thì con thủy quái xem chừng quyết
định ở luôn tại vực sông này. Nếu nó cố tình ở lại thì không những cá tôm ta chẳng
có để đùng mà nạn đói kém đe dọa một mai, thì rồi loạn lạc xảy ra không nhỏ.
Lý lẽ của Thiên Hộ làm cho
Hà Huy suy nghĩ... Tôm cá rồi đây chẳng có, chả lẽ gã phải dùng luôn một món thịt
sao ? Dân tình loạn lạc kéo đi nơi khác thì lấy ai mà đóng thuế mỗi mùa ? Giặc
giã nổi lên, nếu cần tiếp tế lương thực thì chắc chúng sẽ tìm đến kho lúa gần
nhất là nhà Hà Huy...
Bởi vậy Hà Huy ném mạnh cây
tăm xuống đất, chép miệng liên tiếp hai ba lần để cho khô ráo họng lưỡi rồi nói
một cách cương quyết :
- Ta sẽ vì dân mạo hiểm phen
này ! Thôi ông cụ về đi, ngày mai ta sẽ lên quan kêu cứu.
Hôm sau, Hà Huy lên đến cửa
quan nhờ chực, vừa lo quan bận việc khác thì may mắn thay có lính ra truyền gọi
vào. Nguyên là quan lệnh mấy hôm nay phải ăn toàn thịt cũng thấy ngán lắm. Tuy
biết rằng loài thủy quái không sao đến tận tư dinh, nhưng nếu cá tôm cứ việc ở
lại cùng loài thủy quái thì hạnh phúc ở nhà quan chẳng được yên lành. Lập tức,
sau khi truy cứu nguyên nhân vì đâu mà không có món tôm tươi, cá béo trong mỗi
bữa cơm, quan lệnh bèn nghĩ tới cách đối phó với loài quái vật. Quan nhớ ngày
xưa Hàn Dũ đã từng dùng văn xua đuổi giống này nên quyết noi gương cổ nhân lưu
lại đời sau một trang sử lạ thứ hai. Quan bỏ hai ba đêm liền gọt dũa một bài
văn tế vô cùng cảm động, đại ý xác định cho thủy quái rõ vị trí của nó không phải
là miền Dương Châu và luôn dịp đề cao uy lực của quan cho loài thủy quái khiếp
sợ. Cuối cùng, sau khi dọa nạt trong mười câu liền, quan hạ bút thêm một đoạn vỗ
về, an ủi thủy quái, khuyên rằng nếu nó biết điều lẩn tránh nơi đây thì quan sẽ
dựng cho nó một tấm bia lớn trên sông, hàng năm ra lệnh cho dân khói hương tưởng
niệm.
Quan đang rung đùi đọc lại
bài văn của mình đến lượt thứ hai mươi tám thì có lý trưởng Hà Huy trình diện,
Hà Huy chưa dám mạo hiểm kêu cứu thì quan đã vội sốt sắng mở lời.
Lập tức, Hà Huy phóng ngựa
chạy về thi hành mệnh lệnh bề trên. Trước hết là tập trung dân chúng nói rõ ý
quan, sau là phân công hương dịch đôn đốc chúng dân lập đàn tế lễ. Cuối cùng,
chọn lựa ngày tốt, cử người tắm rửa sạch sẽ, đọc bài văn tế của quan.
Nghe được tin này, Thiện Hải
mừng lắm chạy đi tìm cụ Thiên Hộ. Gã vừa bô bô từ ngõ đi vào loan báo tình hình
thì thấy cụ già ngồi ở trước sân vẻ mặt trầm ngâm. Khi nói xong, cụ già vẫn
không tỏ ý nửa lời. Gã chờ giây lát rồi nói :
- Ý cụ thế nào ?
Cụ Thiên Hộ quắc đôi mắt đáp
:
- Thực là một việc buồn cười.
Thuở nhỏ ta có được học ít nhiều mà bây giờ đã quên mất, nghe bao nhiêu văn
chương phú lục cũng chẳng biết gì, thì loài thủy quái xưa nay chưa từng cắp
sách đến trường làm sao thưởng thức cho được từ điệu cao xa của quan Lệnh trấn
?
Thiện Hải có vẻ hoài nghi, hỏi
lại :
- Thế sử sách chả nói chuyện
ông Hàn Dũ đấy sao ?
Cụ Thiên Hộ cười nhạt rồi trả
lời :
- Chuyện ông Hàn Dũ có lẽ là
chuyện có thật, song ta là kẻ dốt nát ta chỉ hiểu rằng một lẽ vì con sấu ngày
xưa nhân mùa nước lớn đi lạc vào một con sông quá cạn, đến khi nước rút nó phải
bỏ đi, hai lẽ là con sông ấy có thể ít mồi tôm cá, không có thức ăn, nó phải chạy
về nơi khác, ba lẽ là khi cầu đảo, tế lễ, người ta khua trống, dộng chiêng, reo
hò ầm ĩ khiến loài quái vật khiếp đảm mà lui. Chứ bảo văn chương ông Hàn Dũ tài
hoa điêu luyện làm cho cá sấu động lòng thì chỉ có lũ trẻ con mới tin như thế.
Nay con sông Dương Châu bề trong thì sâu, bề ngoài thì cạn, lại thêm đất bồi
cơn lụt vừa qua đắp thêm ngọn ngoài khiến loài quái vật khó bề chạy đi nơi khác
thì đừng nói đến một bài văn tế, cho đến ngàn bài cũng chẳng ích gì.
Thiện Hải suy nghĩ giây lâu,
rồi hỏi :
- Thế thì đành chịu hay sao
?
Cụ già đanh thép trả lời :
- Chịu làm sao được ? Văn
chương của quan không đuổi được nó thì sức lực của dân phải giết chết nó.
Thiện Hải gặng hỏi :
- Biết ai là kẻ có tài ?
Cụ già trừng mắt :
- Hừ, biết ai là kẻ có tài !
Chính thế, cứ ngồi mà đợi thì chẳng kẻ nào là bậc có tài. Ta đây cả đời chỉ thẩy
có làm rồi mới phát hiện tài năng, chứ không phải cần sắm đủ tài năng rồi mới
chịu làm. Một là chịu bại thì không có tài, hai là muốn thắng thì tất có tài, lẽ
đời xưa nay vẫn thế. Rồi nhà ngươi xem, giết con thủy quái Dương Châu đều là những
kẻ xưa nay bị xem như bọn vô tài !
Chương 02
Bài văn tế khá trau chuốt của
quan được đọc lại đến lần thứ ba mà con quái vật cứ tỏ ra không cảm động chút
nào.
Ngày đầu khi Lý Diên Đài -
người thủ tế có giọng hay nhất ở Dương Châu - vừa dứt tiếng đọc ngân nga thì
chuông trống vang lên và nhiều người tưởng như trông thấy cái lưng đen sì của
con quái vật hiện lên giữa dòng. Một số trợn mắt, tỏ vẻ kinh ngạc, kêu lên :
- Linh thật ! Linh thật !
Và vị xã trưởng cũng kêu
lên, vừa tỏ vẻ kinh ngạc, vừa trợn mắt :
- Linh thật ! linh thật !
Nhưng sau đó gã Thiện Hải
cũng kêu to :
- Không phải con quái vật !
Đây là mảnh gỗ trôi của chiếc thuyền hư mục nào đó.
Nhiều gã trai trẻ cũng kêu
lên :
- Gỗ trôi ! Gỗ trôi ! Không
phải quái vật !
Lập tức vị xã trưởng nổi giận,
hét lên giữa đám đông người lố nhố bên sông :
- Im đi ! Các người có im đi
không ? Ai cũng cho đấy là con quái vật mà các ngươi lại nhất định là mảnh gỗ
trôi, vậy là thế nào ?
Rồi ông nghiêm giọng phán
truyền :
- Bây giờ chúng ta đang nói
về con quái vật, thì bất cứ cái gì hiện trên sông cũng đều thuộc về nó cả. Mảnh
gỗ cũng là quái vật.
Mọi người không ai dám bàn
tán gì thêm nữa và suốt buổi lễ không có gì khác hiện ở trên sông. Gần trưa ai
nấy đói bụng, kéo nhau ra về. Vị xã trưởng cho rằng quái vật có lẽ đang bận suy
nghĩ nhiều lắm về bài văn tế nên không có bụng dạ nào bơi lượn trên sông. Qua
ngày thứ hai, Lý Diên Đài đã nuốt chanh, ngậm gừng cho giọng được trong trẻo
hơn, đọc bài văn tế thêm một lần nữa nhưng vẫn không thấy con thủy quái tỏ thái
độ gì. Nhiều cụ già cho rằng có lẽ thủy quái đã đi rồi, và vị xã trưởng thì nhất
định thủy quái đang bận thu xếp hành lý để lên đường. Đến ngày thứ ba vị xã trưởng
muốn cho chắc chắn, bắt Lý Diên Đài đọc văn tế thêm một lần nữa, và lần này
viên thủ tế phải rán hết gân hết sức đến nỗi đọc xong anh ta có cảm tưởng rằng
mình là quái vật và bài văn tế này là mình đọc cho chính mình vậy.
Sau đó, suốt ngày không thấy
động tĩnh gì, nhiều người sắp sửa giết nốt con gà còn lại để mừng cho một tình
trạng yên ổn đã được phục hồi thì con quái vật lại thấy hiện lên, lù lù phơi
chiếc lưng đen lượn quanh nhiều vòng ở giữa lòng sông một cách hết sức nhàn hạ,
đủ cho mọi người hiểu rằng nó không lưu ý mảy may đến tài văn chương hoa gấm của
quan lệnh trấn.
Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa
hé những tia đầu tiên trên vòm xanh bao la thì nơi bến Dương Châu đã thấy cụ
Thiên Hộ đứng chờ. Rồi từ trong bờ tre đầu xóm lần lần xuất hiện Khải Hòa, Thiện
Hải, ông cụ Hồ Bái và năm người trai trẻ khác nữa, mỗi người lên tay đều có một
cây dáo dài.
Khi họ đến gần, cụ Thiên Hộ
nói :
- Ta chờ các người đã lâu rồi.
Không nên chậm trễ, mặt trời lên cao chói sáng khó mà đuổi theo thủy quái. Qua
mấy đêm không ngủ ta đã theo dõi sự biến hiện của nó rõ rệt lắm rồi. Con quái
này lớn lắm, nó không đi lại như loài cá nhỏ, mà có giờ giấc nhất định.
Rồi ông cụ nhếch môi như cố
gượng cười, nói tiếp :
- Quái vật nó cũng như người,
hễ càng to lớn thì càng nặng nề, và càng làm vẻ quan trọng. Thôi, xuống thuyền
!
Khải Hòa nói :
- Chờ một chút nữa, thằng
Hùng sắp đem heo ra bây giờ.
Cụ Thiên Hộ hỏi :
- Còn heo nào nữa ? Ta đã bảo
anh, ta còn con heo cuối cùng để ta nướng lấy làm mồi cho loài thủy quái thì ta
đã làm đây rồi. Xem kìa !
Ông cụ chỉ xuống dưới thuyền
và mọi người nhìn thấy một đầu heo cháy vàng thò khỏi một tàu lá chuối khá lớn ủ
giữa khoang thuyền.
Khải Hòa nói :
- Cụ đã biết đem con heo cuối
cùng cho loài thủy quái thì lẽ nào tôi lại tiếc con heo độc nhất của tôi hay
sao ? Miễn là giết được thủy quái thì ta còn mong có nhiều heo khác, lo gì. Chỉ
một con mồi không đủ để nhử nó đâu.
Nói vừa dứt câu thì đã thấy
bé Khải Hùng vác heo từ trong xóm chạy ra. Mọi người xuống thuyền. Tất cả là
chín người, chia làm ba nhóm, cụ Thiên Hộ, Khải Hòa và Thiện Hải ngồi riêng để
cầm đầu từng chiếc thuyền một.
Ông Hồ Bái nói :
- Chúng ta ít người quá
không ?
Cụ Thiên Hộ đáp :
- Bây giờ đã bắt tay vào việc,
đừng có băn khoăn về nỗi ít nhiều. Đã nói rát cả cuống họng mà không được đông
hơn, thì bấy nhiêu đây là khá lắm rồi. Nhiều mà không có tinh thần thì nhiều chẳng
có ích gì. Người ta sợ chết, sợ xúc phạm đến quái vật và thích ngồi yên để cho
quái vật giết lần giết mòn gia đình, làng xóm của mình. Chúng ta là người,
không thể sợ loài ác thú.
Nói xong, cụ bèn đẩy thuyền
ra trước.
Khải Hùng bỏ heo xuống thuyền
và muốn ngồi luôn trong khoang. Khải Hòa bảo con :
- Con trở về đi.
Khải Hùng đưa mắt như muốn cầu
cứu mọi người để được ở lại. Khải Hòa la lên :
- Thôi, trở về ! Tao có chết
đi cũng còn lại mày.
Mọi người cũng bảo chú bé
lên bờ. Biết không thể được, Khải Hùng rời thuyền, tiu nghỉu ngồi trên bờ sông
nhìn theo những chiếc thuyền nhỏ từ từ lướt trên mặt nước yên lành còn phủ nhẹ
lớp sương mai, trong lòng cảm thấy vô cùng hồi hộp.
Ra đến giữa sông, cụ Thiên Hộ
quay lại bảo mọi người :
- Cứ theo đúng như kế hoạch
chúng ta đã bàn trong đêm mà làm.
Xong, cụ Thiên Hộ quan sát mặt
sông, cho thuyền tiến lên phía trước rồi cột một con heo thui vào một đầu dây
thả xuống dòng nước. Khải Hòa bắt chước làm theo và ba chiếc thuyền cùng neo cả
lại, mỗi người rút giáo gác trên be thuyền, tay giữ mái chèo.
Bây giờ phương đông ló sáng
vừng hồng. Những tia lửa đầu tiên rạch chiếu lên nền trời xanh nhạt, đuổi qua
bên kia chân mây những bóng tối cuối cùng sót lại.
Cụ Thiên Hộ ra dấu cho ghe
Thiện Hải dừng lại và cùng ghe Khải Hòa chèo nhẹ trên mặt sông, đảo thành vòng
tròn, vừa giựt sợi dây cho miếng mồi nhấp nhô trôi nỗi ở trong lòng nước.
Bỗng nhiên mặt sông như chao
đảo mạnh và mấy chiếc thuyền theo luồng nước dợn chồng chềnh như muốn lật
nghiêng. Rồi từ từ dưới nước nhô lên một tảng đen sì có những gai cạnh như những
răng cưa khổng lồ.
Ông Hồ Bái kêu lớn lên :
- Con ác quỷ đây rồi.
Và cứ hả miệng, chỉ tay, gần
như không thể nói năng, cử động gì thêm được nữa.
Thủy quái lượn quanh một
vòng như chuyển mình rồi vươn đến phía sau thuyền cụ Thiên Hộ. Lập tức cụ Thiên
Hộ rút mạnh sợi dây để kéo mồi về và ra lệnh chèo thuyền. Những cánh tay lực lưỡng
đưa thuyền lướt tới rất nhanh hướng về một đám lau sậy mọc lan trên sông ở giữa
một vùng nước cạn. Nhưng con thủy quái chỉ cần vẫy mình một cái đã đuổi theo kịp
và cụ Thiên Hộ thả lỏng dây mồi. Thủy quái há chiếc họng lớn chĩa những răng
dài đớp lấy. Cụ Thiên Hộ vẫn giữ đầu dây và tháo lần ra tùy theo sức kéo của
con quái vật. Nhưng thuyền của Khải Hòa vừa lướt tới thì gặp thủy quái quay
mình trở lại. Biết rằng chậm trễ thủy quái có thể làm cho lật thuyền, Khải Hòa
ném ngay miếng mồi sang một bên để nhử thủy quái. Khi con vật vừa lao mình về
phía ấy thì Khải Hòa cùng toàn đội chuyển hết gân sức đưa thuyền về phía bãi sậy.
Cả ba chiếc thuyền bây giờ ở trên miền nước cạn và những trai trẻ đi theo nhảy
ngay xuống nước giúp cụ Thiên Hộ, Khải Hòa nắm lấy hai đầu dây cột giữ miếng mồi
đã vào trong bụng thủy quái.
Thủy quái vừa quẫy mình đi bỗng
cảm thấy bị giật lại, các miếng mồi đã nuốt vào ruột như bị lôi ra tận họng. Nó
vội vàng ngậm chặt lấy mồi và bị hai sợi dây kéo đầu của nó quay ngược về vùng
nước cạn. Thiện Hải bấm chân xuống dưới đất bùn, ngã người về phía sau cố kéo sợi
dây. Ông Hồ Bái cũng mím môi, dồn hết sức lực già nua lên cặp tay gầy, cụ Thiên
Hộ và Khải Hòa bấy giờ mỗi người đã leo lên một chiếc thuyền để quan sát. Năm
người trai trẻ không nói một lời, lôi mạnh đầu dây, nhất cử nhất động đều theo
lệnh cụ Thiên Hộ.
Con thủy quái từ từ quay lại
nhưng vẫn tỏ ra nghi hoặc. Nó vừa cưỡng lại sức kéo, vừa tiếc những mồi thơm,
béo đang chực tuôn ra khỏi họng nên cứ phải tiến về phía đám người. Bây giờ mồm
nó nghếch lên mặt nước, mọi người có thể trông rõ hình thù. Đó là một loại hắc
long rất lớn, có lẽ vào hạng già nua, theo sự nhận xét của cụ Thiên Hộ, không
biết căn cứ vào những điểm nào. Loại này rất dữ tợn và rất háo ăn, thuộc lớp
tiên tổ của loài thủy tộc.
Cứ thế, con quái vật vừa giữ
miếng ăn vừa tiến về phía những người đợi nó. Khi bơi gần vào khoảng sông nước
cạn thì mình nó phơi khá rõ trên sông, mọi người đều thấy rõ cái lưng xù xì gớm
ghiếc nhô lên như một ghềnh đá. Nhưng con quái vật không tiến lên nữa. Nó cố
ghì lại, đầu hơi cử động và đuôi gai góc vẫy mạnh như để giật lùi.
Tình thế bây giờ đã sang
giai đoạn quyết liệt.
Cụ Thiên Hộ thấy thủy quái
đang trong tâm trạng phân vân. Một bên là miếng mồi ngon, một bên là vòng cạm bẫy.
Nếu để thủy quái tha mồi thì bao nhiêu công phu trở thành tro bụi. Hai con heo
vốn liếng của hai gia đình, đành xem như là phí bỏ. Vả lại, lần thất bại này của
họ sẽ giúp thủy quái tinh khôn và cuộc chiến đấu về sau sẽ thêm khó khăn gấp bội.
Trước mắt cụ, thấp thoáng hình ảnh của những gia đình nheo nhóc, đói khổ, bên
tai cụ vẫn nghe những tiếng thở dài áo não trong những đêm qua. Cụ hiểu rằng để
cho loài ác thú thắng được phen này là cuộc sống trên bờ Dương Châu trở nên héo
hắt, tiêu điều. Không, loài thủy quái tuy sống lâu đời nhưng cụ Thiên Hộ là người
tuổi tác. Nó tuy có sức mạnh, nhưng cụ lại có trí khôn, cộng thêm bao nhiêu tấm
lòng phụ họa, bao nhiêu bàn tay hợp sức. Bất giác cụ già đứng thẳng lên trên
chiếc thuyền chồng chềnh vì mặt nước chao đảo do sự vùng vẫy của con quái vật,
và ra hiệu cho những người trai trẻ thả lơi dây kéo. Con thủy quái nuốt miếng mồi
vào và quày đầu ra giữa sông. Lập tức, theo lệnh của cụ Thiên Hộ, những dây kéo
lại giật mạnh. Đầu con quái vật lại quay ngược vào. Cứ thế, khi buông lơi, khi
kéo thẳng, con quái vật cứ phải đảo mình nhiều lượt trên vùng nước cạn để giữ
miếng mồi.
Cụ Thiên Hộ biết rằng thủy
quái háu ăn, trải qua một đêm yên nghỉ bây giờ cần được no bụng. Cơn đói buổi
sáng khiến nó không chịu thả mồi. Lại thêm từ lâu ăn mãi tôm cá, này có miếng
ngon béo bổ, dễ gì nó chịu buông tha, miếng mồi lại cứ chập chờn như thế, làm
sao nhịn được. Nếu phải chiến đấu với một thủy quái trẻ hơn thì cụ phải lo lắng
nhiều về phần sức mạnh, nhưng cụ dễ khiến cho nó vào tròng, và dễ thắng trận. Đằng
này quái vật đã già lắm rồi, và như hầu hết những người tuổi tác, quái vật cũng
rất đa nghi, cũng biết dè dặt và e ngại nỗi khó khăn. Bởi vậy, cụ phải để mồi
cho nó nuốt sâu vào họng rồi mới giựt ra. Loài vật cũng như loài người không
bao giờ chịu buông thả miếng mồi ưa thích mà mình đã nuốt được rồi. Sự khiêu
khích nhẹ nhàng ấy làm cho thủy quái cảm thấy không bị đe dọa nhưng phải vất vả
vì một trò đùa đã kéo quá dài. Đến khi đã thấy con vật xoay chuyển đã hơi chậm
chạp, nặng nề, cụ Thiên Hộ đợi lúc nó quày đầu vào miền nước cạn, ra dấu cho những
chàng trai kéo dây thực mạnh. Hai miếng mồi tuồn tuột chỉ chực trôi ra và con
quái đành chuyển hết sức lực để cố giữ lại. Bỗng nhiên một sợi dây đứt. Cụ Hồ
Bái, Thiện Hải và hai chàng trai khác ngã xoài trên sông. Sợi dây cột mồi của
Khải Hòa không được thật chắc đã bị răng con quái vật nghiến nát. Tình thế trở
nên cấp bách. Nếu dây thứ hai cũng bị đứt luôn thì tan tành bao nhiêu trông đợi
của biết bao người. Lập tức, những người kia chồm cả dậy và phụ lực vào dây kéo
độc nhất. Cụ Thiên Hộ, liền trong lúc ấy, ra hiệu lơi dây. Con thủy quái trong
phút không bị dằng co vội vã nuốt lấy miếng mồi đã chiếm trọn vẹn thì vừa lúc ấy
cụ Thiên Hộ lại ra hiệu kéo dây thật mạnh. Con vật hả họng nuốt xong miếng mồi
thứ nhất thì mồi thứ hai tuột ra khỏi miệng. Nó chồm lên đớp theo, liền bị rơi
vào một khoảng cát lầy rất cạn. Biết lâm vào tình thế nguy, quái vật vẫn không
thả mồi nhưng cố vùng vẫy. Con vật càng quẫy càng lún vào lớp cát bùn. Theo lệnh
của cụ Thiên Hộ chỉ hai chàng trai phụ trách giữ dây, còn tất cả đều lên thuyền
chĩa dáo xốc tới. Thiện Hải từ trước vẫn thấy sợ sệt, nay đối diện được sự thực
thấy rõ quái vật như một khối đen khá lớn tua tủa đầy gai quày quẫy trong vùng
cát bùn, tự nhiên không còn sợ nữa. Anh chồm tới đầu tiên, phóng thẳng mũi dáo
vào bụng con vật. Lưỡi giáo trúng dạ dày dội lại và Thiện Hải loạng choạng suýt
ngã trên thuyền. Con vật quẫy đuôi, quất mạnh trở lại. Ông Hồ Bái vừa đứng lên
bị trúng vào ngực, té ngửa xuống sông, miệng trào máu, loang đỏ mặt nước vẩn đục
bùn lầy. Thiện Hải vội vàng nhảy xuống vực ông Hồ Bái lên thuyền. Con quái vật
thoáng ngửi thấy mùi máu, hung hăng quay về phía ấy, lôi tuột cả hai người nắm ở
đầu dây chạy theo. Vừa thấy Thiện Hải, nó nhả mồi nhe răng, đớp lấy. Thiện Hải
nhanh nhẹn cúi rạp xuống thuyền nhưng con thủy quái đã ngoạm vào cánh tay phải
và nhấc anh lên. Thiện Hải kêu rú một tiếng khủng khiếp và ông Hồ Bái đang
thiêm thiếp trong cơn mê bỗng mở choàng mắt, hãi hùng thấy gã chèo đò lủng lẳng
trước mồm quái vật.
Khi con vật vừa chuyển mình
thì Khải Hòa đã lướt thuyền sát tới hông nó, chuyển hết sức lực đâm mạnh mũi
giáo vào dưới nách trái rồi thọc sâu lên phía họng quái vật. Trúng vào chỗ yếu,
con vật thả rơi Thiện Hải, quật mình trở lại như không chịu nổi sự đau đớn tột
cùng. Khải Hòa bám chặt cán giáo nên bị cả khối thân hình to lớn của con quái vật
như một tảng đá khổng lồ đè lên. Cụ Thiên Hộ suýt kêu lên một tiếng thất thanh
nhưng kịp ghìm lại. Đợi con quái vật phơi bụng lên mặt sông, cụ và năm người
trai trẻ xốc tới phóng những mũi nhọn ngay vào chỗ hiểm của nó. Con vật cố vùng
lên, nhưng khi lật mình, nó đã cày sâu lưỡi dáo của Khải Hòa vào lồng ngực nên
không còn đủ sức để vùng vẫy. Cụ Thiên Hộ toan lặn xuống để mò xác Khải Hòa thì
đã thấy anh nổi lên cạnh mình. Cụ kêu lên :
- May quá ! Tôi tưởng anh đã
nguy rồi.
Khải Hòa cười :
- Thấy nó quật lại tôi đã lặn
trước và cút thẳng lại thuyền cụ Hồ Bái định mượn cây giáo nhưng bùn vẩn đục
không thấy rõ đường. Thế nào, nó còn sức lực gì không ?
Con quái vật nằm ngửa, phơi
bụng lên trời, để lộ mảng da trắng bệch, nhăn nheo. Thỉnh thoảng nó quẫy cựa
toàn thân nhưng vẫn cứ giữ yên cái tư thế cũ. Máu từ dưới bụng, từ ngực của nó
cuồn cuộn tuôn ra đỏ ngầu mặt nước.
Mọi người tiến lại thuyền
ông Hồ Bái. Thiện Hải bị cắn nát cánh tay phải, từ khi rớt xuống mặt sông, đã cố
lết lại bên cạnh ông già. Khải Hòa thấy ông Hồ Bái nằm yên, bất động, cúi xuống
nghe ngóng hơi thở. Ông cụ thoi thóp, cố giương cặp mắt lờ đờ nhìn khắp mọi người.
Cụ Thiên Hộ nói :
- Ông cứ nằm yên, chúng ta
đã giết con thủy quái rồi.
Ông Hố Bái kêu lên :
- Con thủy quái . . . chết rồi
? Thực . . . là đại phước !
Rồi ông òa lên khóc. Những
tiếng khóc yếu đuối của ông khiến cho mọi người cảm động. Thiện Hải cố nén đau
đớn, nghiêng xuống bên ông, an ủi :
- Cụ nên bình tĩnh để khỏi tổn
hại tâm thần. Chúng ta từ đây có thể làm ăn yên ổn trên mặt sông rồi.
Ông Hồ Bái mấp máy môi, cố gắng
hồi lâu mới cất tiếng nói phều phào :
- Tôi . . . không còn . . .
sống . . . thêm được mấy nữa. Cho tôi . . . nhìn xác nó một lần cuối . . . thế
là toại nguyện.
Ông nghiêng mình, cố gắng chống
tay ngồi dậy. Khải Hòa và mấy người trai vội xúm lại bên, đỡ ông ngồi lên. Ông
Hồ Bái nhìn trân trân vào xác thủy quái rất lâu như cố thâu hết hình thù quái gở
vào trong tâm não trước khi lìa đời. Đoạn, ông phều phào :
- Thế là thỏa rồi. Mầy đã
làm khổ nhiều người thì mày phải chịu đền tội. Từ thủa sinh ra đến giờ ta mới
được thấy tận mắt những kẻ hung ác lớn lao như vậy chịu sự xử phạt. Hễ giết được
mày thì bao nhiêu kẻ ác khác cũng trừ tiệt được. Thôi, ta yên lòng mà . . . chết.
Dứt lời, ông Hồ Bái thở hắt
ra, đầu nghẹo một bên, đôi mắt từ từ nhắm lại. Mọi người không ai cầm được nước
mắt. Cụ Thiên Hộ sửa cho ông Hồ Bái nằm ngay ngắn trong khoang thuyền rồi bảo
hai người trai trẻ đưa về. Cụ nói :
- Ông già này từ ngày con thủy
quái tác hại đã phải bất tỉnh nhân sự nhiều lần, mà đến lần này mới không dậy nữa.
Con người chân chất, thuần lương mà suốt một đời khổ mãi. Bây giờ mới thực là hết
lo âu.
Khi thuyền đưa ông Hồ Bái
quày đi, cụ dặn với theo :
- Vào bờ hãy nói cho mọi người
biết thủy quái chết rồi nhưng nhớ đừng bảo là ai giết nó đấy nhé !
Rồi quay lại phía Khải Hòa,
cụ nói :
- Con thủy quái này trừ được
là nhờ công lớn của anh. Nếu không có ngọn dáo quyết liệt ấy thì Thiện Hải đã
chết rồi mà chúng ta đây chưa chắc một kẻ nào còn sống sót...
Khải Hòa vội đáp :
- Cụ đừng nói thế, giết con
quái vật là công sức của mọi người mà cụ mới chính là người quyết định.
Cụ Thiên Hộ lắc đầu, bảo :
- Ta không phải nói như thế
để cho các người nhắc đến chút công điều khiển của ta. Bất cứ việc gì thành
công nhất định đều do nhiều người đóng góp là lẽ tất nhiên. Song phải nhận định
cho đúng cái công lớn nhất để mà hiểu được giá trị việc làm. Ta nói vậy là cốt
khuyên các người khi trở vào bờ không nên qui công vào một kẻ nào.
Thiện Hải tỏ vẻ ngơ ngác :
- Tôi không hiểu rõ ý cụ.
Cụ Thiên Hộ nghiêm nghị nói
:
- Ta không cần nói dài dòng,
các người cứ nghiệm thì hiểu. Chỉ nhắc cho các người nhớ rằng ở thời này kẻ có
công nhiều chưa chắc là kẻ đã được đền bù xứng đáng. Nên nhớ kỹ như vậy là được
rồi. Hơn nữa bọn ta giết loài thủy quái là vì chúng ta trước hết, vậy thì kể
công làm gì ? Thủy quái không cho ta sống, ta phải trừ nó, kể ơn với ai bây giờ?
Rồi cụ cùng với mọi người
yên lặng chèo thuyền trở về.
Khi đến bờ thì người ta đã đứng
đông như kiến. Tin con quái vật bị giết truyền đi rất chóng, làng trên xóm dưới
ùn ùn kéo ra chật cả bờ sông. Ai cũng tỏ vẻ vui mừng, hỉ hả, vừa bày tỏ ý ngạc
nhiên, thán phục. Nhiều người nhao nhao, tranh nhau để hỏi :
- Chết thật rồi à ?
- Ai giết nó đấy ?
- Giết cách nào đấy ?
- Ai mà giỏi thế ?
Đối với bất cứ ai cụ Thiên Hộ
cũng giữ vẻ tự nhiên đáp lại :
- Có gì đâu, chúng tôi kéo
ra bờ sông định xem con quái đi chưa để mà làm nghề. Nào ngờ gặp nó quật ông Hồ
Bái, cắn gã Thiện Hải, nên mọi người cùng ào đến mỗi người đâm nó một nhát là
nó chết ngay. Con quái vật này đã già rồi mà.
Ở trong đám đông nhiều câu vẳng
lên :
- Biết mà ! Con quái này già
lắm rồi, không đâm cũng chết.
- Chắc nó mù lòa không thấy
đường đi nên mới dễ đâm như vậy.
- Lạ gì, nó đói lâu nay, giết
nó không khó lắm đâu.
- Đấy, xem bài văn tế của
quan lệnh trấn có linh không nào ! Quan bảo "trước sau rồi mày cũng không ở
đây được đâu", quả y như lời ngài dạy.
Mấy người rẽ đám đông trở về
nhà. Cụ Thiên Hộ rửa ráy cánh tay bị cắn dập cho Thiện Hải còn Khải Hòa thì đi
hái lá và bó lại. Xong, mỗi người trở về, tắm rửa và kiếm một xó vắng để ngủ
cho lại sức.
Nhưng chỉ lát sau vị xã trưởng
đã cỡi ngựa đến nhà Thiện Hải. Nhà gã chèo đò ở gần nơi bến. Khi bé gã đã từng
chăn trâu cho xã trưởng, vì thế, mỗi lúc có công việc gì, xã trưởng vẫn nhớ đến
gã Thiện Hải, xem như Thiện Hải phải luôn luôn nhớ đến cái vinh dự được giữ
trâu cho ông ta ngày trước. Huống hồ việc giết thủy quái, nghe đâu có gã Thiện
Hải dự vào, chắc là nó phải rõ hết đầu đuôi tự sự, cho nên xã trưởng lại càng
phải tìm gã gấp.
Bây giờ Thiện Hải mới thấy vết
thương nhức nhối, đang nằm đắp chiếu rên rỉ thì nghe tiếng roi vụt quất bèn bẹt
trên mình, hé chiếu nhìn ra thì thấy xã trưởng, vội vàng ngồi dậy cố nén đau đớn
chào hỏi.
Xã trưởng bảo rằng :
- Mày phải nói rõ đầu đuôi
xem sao. Phen này biết được đứa nào giết con quái vật tao sẽ lên trình quan
trên để mà tưởng thưởng.
Xã trưởng cũng đã nghĩ ngợi
nhiều rồi. Thế nào quan trên cũng phải ban khen ông ta về tài mẫn cán đôn đốc
chúng dân ra tay trừ được mối họa lớn này. Bởi vậy xã trưởng gạn hỏi rõ ràng
chi tiết để lên cửa quan một mực tường trình. Thiện Hải nhớ lời cụ Thiên Hộ dặn
nên kể lại sơ lược theo như cụ bảo mỗi người. Nhưng bỗng nghĩ đến cái công Khải
Hòa đã cứu cho mình khỏi chết nay lại giấu đi thực chẳng an lòng. Vả lại, Khải
Hòa trọn đời sống cảnh thiếu thốn, bây giờ nếu được quan trên đoái tưởng hoặc
ban thưởng hoặc trọng dụng thì thật vẻ vang cho anh biết là bao nhiêu ! Nghĩ thế
Thiện Hải dần dà kể hết đầu đuôi, đặc biệt tán tụng Khải Hòa, xem như là tay bản
lĩnh phi thường. Xã trưởng nghe xong, gật đầu và bảo :
- Mày có thể nằm mà nghỉ cho
khỏe. Để tao phải vì chúng mày lên quan phen này. Tao sẽ khai thêm có mầy cũng
là một tay đắc lực. Ồ, đừng có ngại gì, mầy cũng như kẻ chân tay trong nhà của
tao. Trước kia chẳng phải mầy đã coi trâu cho tao suốt mấy năm trường đó sao ?
Nói xong, xã trưởng đi ra,
lên ngựa, quất roi vun vút để phi nước đại về nhà chuẩn bị lên quan. Thiện Hải
bày tỏ xong hết mọi điều, cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm như trả được ơn cho Khải
Hòa và cánh tay cũng thấy bớt nhức nhối hơn trước.
Đến chiều, cụ Thiên Hộ đang
ngồi vá lưới ngoài bờ sông bỗng nghe vó ngựa lộp cộp trên con đường làng, ngước
mắt nhìn lên thì thấy ba người sai nha đi ngựa, dẫn đầu là vị xã trưởng. Họ đi
vào xóm và mất hút sau lũy tre xanh. Cụ Thiên Hộ sinh lòng nghi hoặc, nhiều lần
toan bỏ việc trở về xem thử sự tình, nhưng sau buổi sáng vất vả, người cụ rã rời
không muốn đi lại. Tuy vậy chẳng được yên tâm, cụ ngồi thừ đấy để chờ. Một lát,
đoàn người ngựa kéo ra và cụ vô cùng kinh hãi khi thấy Khải Hòa bị trói lôi đi
theo sau. Cụ Thiên Hộ bỏ lưới bên đường, tất tả chạy đến. Nhưng Khải Hòa bị lôi
theo ngựa nên phải vừa đi vừa chạy, cụ đuổi không kịp, chỉ thấy anh ta quay lại
gục đầu, ra dấu từ biệt. Cụ đứng ngơ ngẩn giữa đường nhìn theo đoàn người mất
hút đằng xa sau một khúc quanh, và vội vã đi về thay quần áo, tìm lấy chiếc
nón, tất tả đi ngay trong đêm đến nơi phố trấn mà quan Lệnh trấn ở.
Chương 03
Cụ Thiên Hộ đến trấn thì trời
đã tối hẳn. Cụ Thiên Hộ ngồi xuống bên vệ đường để nghỉ và cảm thấy cơ thể như
muốn rã rời. Mặc dầu chưa ăn cơm tối cụ vẫn không thấy đói, trong lòng chỉ băn
khoăn không biết Khải Hòa sự thể ra sao. Cảm thấy bớt mệt cụ mới đi đến cổng
dinh thì thấy cửa đóng then gài, lính canh qua lại như không có chuyện gì xảy
ra. Cụ cố nhìn vào xong, nhưng thành cao, tường dầy không sao thấy được. Biết rằng
quanh quẩn mãi đây cũng vô ích, có thể khiến cho quân lính ngờ vực sinh chuyện
lôi thôi, cụ bèn tìm đến một nhà người quen, gọi là Thập Biện, giữ chân lính hầu
cho quan Lệnh Trấn.
Thập Biện ăn cơm xong đang
còn ngà ngật về mấy chén rượu, chửi lảm nhảm tứ phương - nhất là chửi những bọn
hương lý ngày ra vào ở chốn công môn mà không biết rõ Thập Biện là người quyền
thế nên chẳng chào thưa phải phép. Cụ Thiên Hộ đứng ngoài cửa đợi cho Thập Biện
chửi xong mấy chục vòng thường lệ rồi mới bước vào, lễ phép chào lớn :
- Chào anh.
Thập Biện nhướng cặp mắt nhấp
nhem lên nhìn, quát to :
- Ai hỏi gì ta đó ?
Cụ Thiên Hộ đáp :
- Thiên Hộ đây. Đã lâu không
ghé thăm ông anh được, nay nhân có dịp tìm đến vấn an.
Thập Biện như sực nhớ rạ cười
ha hả :
- À, anh bạn già Thiên Hộ !
Thế nào ? Lúc này dòng sông Dương Châu còn nhiều cá chứ ?
Cụ Thiên Hộ biết rằng mình
không có quà cáp biếu xén là điều thất sách, nhưng phải liệu lời chống chế, làm
vẻ ngạc nhiên :
- Trời ơi ! thế từ lâu nay
ông anh sức khỏe không được khang cường hay sao ?
Thập Biện trợn mắt lên :
- Sao lại hỏi ta như thế ?
Cụ Thiên Hộ trả lời :
- Chắc là ông anh cũng rõ
dòng sông Dương Châu lắm cá, lắm tôm nhưng từ khi bị thủy quái đến giờ, chẳng
ai còn dám bước chân xuống nước. Tưởng là ông anh lâu nay sức khỏe sút kém nên
không bước chân ra ngoài…
Thập Biện bĩu môi đáp :
- Việc gì ta lại chẳng biết.
Cho đến cái thằng… cái thằng gì hả ?
Thập Biện nhíu mày, trợn mắt
cố nhớ cho ra :
- À… à… cái thằng… Khải Hòa
giết con thủy quái ra sao, ta cũng rõ từng chút một. Anh biết nó chứ ?
Cụ Thiên Hộ trả lời :
- Có biết đấy ạ. Thế quan
trên ban thưởng cho nó gì chưa ?
Thập Biện cười khảy đáp :
- Ban thưởng rồi.
Và lập tức anh ta nổi giận
lên :
- Cái thằng bợm bãi ấy anh bảo
phải ban thưởng cho nó cái gì ? Sáng nay, lý trưởng Hà Huy vừa cỡi ngựa chạy
lên thì quan Lệnh đã hay tin trước, hầm hầm chực sẵn, gọi vào. Quan hỏi :
"Đứa nào dám giết thủy quái ?" Thì lão Hà Huy run như cái đuôi thằn lằn,
khai hết sự thực. Nghe xong, quan lệnh càng thêm giận dữ bảo rằng : "Ta đã
làm văn tế là để xua đuổi yêu loài, nó lại tự tiện vượt quyền của ta khoe
khoang sức khỏe, không xem uy lực của ta ra gì. Thế ra ta phải mất công gọt vần
chắp điệu để mà đùa bỡn phải không ? Nó chẳng đợi thủy quái ra đi êm thấm lại
khiêu khích oan hồn của giống yêu ma quấy nhiễu dân lành, thật là bất trị.
Ngươi há chẳng biết rằng con thủy quái để sống thì hại người có một, mà giết nó
chết thì hại mười. Rồi đây hồn ma của nó tác quái cho xem ! Thằng Khải Hòa này
quả thực là phường đạo tặc, là hạng cường khấu ngu si. Nó muốn làm chuyện phi
thường để gây tín phục trong đám dân quê dốt nát hầu mong phá rối trị an. Bây
giờ không sớm trị nó thì sau khó lòng dẹp loạn". Anh đã nghe chưa ? Việc
gì mà ta không biết ? Quan Lệnh ngài thực sáng suốt hơn người, thấy việc xảy ra
được trước mười năm là ít. Cái thằng dân chài Khải Hòa này để cho nó sống, thì
mười năm nữa rồi xem, e rằng chúng ta không còn ngồi yên với nó được đâu.
Thập Biện ngừng lời. Rồi đột
nhiên cười phá lên ra dáng hả hê :
- Cho nên quan Lệnh ban thưởng
nó rồi. Ban thưởng như thế thật là xứng đáng !
Cụ Thiên Hộ ngơ ngác hỏi :
- Ban thưởng gì đấy, thưa anh
?
Thập Biện đáp :
- Lại không biết được hay
sao mà còn phải hỏi ? Ban thưởng gì nào ? Anh muốn phong chức cho nó hay sao ?
Rồi Thập Biện trợn mắt, đưa
bàn tay lên chặt xuống mặt bàn :
- Thưởng như vậy đó.
Cụ Thiên Hộ hoảng hốt kêu
lên :
- Chém rồi ?
Thập Biện ra vẻ quan trọng,
nghiêm nghị đáp :
- Chém đầu lập tức. Để nó sống
làm gì hở ? Thủy quái mà nó giết được thì cái cửa ngục nó phá cũng được. Chém
là thượng sách. Mà không những trừ nó là xong đâu...
Thập Biện dừng lời nheo mắt
nhìn cụ Thiên Hộ, như muốn bắt cụ đợi chờ. Cụ Thiên Hộ trong lòng chết điếng,
những muốn kêu trời mà khóc, nhưng cố nén lòng hỏi thêm :
- Vậy quan trên còn định ra
lệnh gì nữa ?
Thập Biện gật gù cái đầu :
- Lệnh trên không phải dễ gì
ai cũng biết được cả đâu. Nhưng chỗ anh quen thân, ta mới bảo cho rõ đấy. Nghe
đâu tên Khải Hòa này còn đứa con trai, để cái mầm loạn sống sót thì thêm nguy hại…
- Thế ra phải giết luôn cả
con nó ?
Thập Biện cười đáp :
- Chẳng lẽ giết được thằng
cha mà không giết được thằng con hay sao ? Trừ loạn thì phải trừ cho tiệt gốc mới
là thượng sách. Quan đã ra lệnh từ chiều.
Cụ Thiên Hộ ngồi yên, cúi thấp
mái đầu đã bạc như không nghe gì nữa. Đôi vai gầy của cụ rung lên và nước mắt
chực tuôn trào. Cụ bèn đứng lên, từ giã. Thập Biện không muốn giữ lại, mời đưa
một tiếng, và cụ Thiên Hộ vội vã ra về.
Cụ bước trong khoảng đêm
dày, tưởng như nghe thấy đất trời chao đảo. Tai cụ như ù đi, mắt cụ như mờ hẳn,
chân bước trên đường mà như chập chờn bước trong một giấc chiêm bao. Ra đến giữa
đồng, gió từ sông xa thổi về mát lạnh, cụ mới tỉnh trí, dừng lại bên đường. Những
gì cụ đã lo toan bây giờ đã thành sự thực và sự thực lại càng bi đát hơn nhiều.
Cụ nghĩ lại cuộc đời Khải Hòa, nghĩ đến nỗi khổ mà anh đã trải qua trong cuộc sống,
từ những ngày làm thuê ở mướn cho nhà họ Vương đến khi vất vả một mình nuôi con
trong túp lều nhỏ, bao nhiêu thiếu thốn, nhọc nhằn chịu đựng suốt cả một đời,
và bây giờ đây bỏ xác oan uổng không người thân yêu chăm sóc mộ phần. Nước mắt
già nua của cụ, giữa chốn vắng vẻ ràn rụa tuôn ra như những dòng suối chảy từ
lòng sâu của một ngọn núi cằn cỗi.
Rồi cụ lại đi, hối hả trở về.
Nhiều lần cảm thấy quá sức nhọc mệt không sao bước nổi, cụ tưởng ngã gục trên
đường nhưng lại gượng bước, cố hướng cặp mắt già nua về nẻo xóm làng quen thuộc.
Cụ về tới xóm thì khuya lắm
rồi. Mọi người đã ngủ, giấc ngủ yên lành thiêm thiếp theo sau một trận lo âu dằn
vặt nhiều ngày. Cụ rẽ vào ngõ nhà Khải Hòa, lại gần cánh cửa lắng tai nghe
ngóng và đoán thằng nhỏ Khải Hùng đã ngủ mê say, cụ bèn về nhà. Khi cụ đẩy cửa
bỗng nghe Khải Hùng kêu lên mừng rỡ :
- Trời ơi, cụ về đây rồi ! Để
cháu tìm lửa.
Lát sau, thằng bé thắp được
ngọn đèn, đem lên giữa nhà. Nó nói :
- Sau khi cha cháu bị bắt đi
rồi lại thấy cụ vội ra đi cháu thực lo lắng, sang đây trông nhà cho cụ...
Cụ già ngồi yên nhìn chăm
chăm vào Khải Hùng giây lâu và nén khóc nói ôn tồn, chậm rãi :
- Khải Hùng, ta muốn nói
riêng với con điều này…
Thằng bé ngước mắt, đợi chờ.
Cụ già tiếp lời :
- Từ đây ta với cháu đành phải
xa nhau, không biết bao giờ mới gặp. Cuộc đời của cháu rồi sẽ khó khăn, nguy hiểm,
không thể lường trước ra sao. Nhưng đừng buồn, đừng lo, cứ chịu khó mà sống, mà
phấn đấu với đời. Cháu đừng khóc lóc khi nghe tin này : Cha cháu đã bị giết rồi.
Khải Hùng ngồi sụp xuống nền
đất, gục đầu vào cột, cố giữ cho khỏi tiếng khóc. Ông cụ nói tiếp :
- Thôi, đừng buồn. Quan trên
sáng mai sẽ cho bọn lính về đây giết luôn cả cháu.
Thằng bé ngước mắt nhìn lên.
Trong ánh đèn dầu lờ mờ, cụ già nhìn thấy long lanh những ánh căm hờn trên cái
khuôn mặt trẻ thơ. Cụ nói :
- Phải tự cứu thoát, đừng để
phải chết một cách oan uổng. Cháu hãy ngồi đây, từ đây bắt đầu cuộc đời lưu lạc
của cháu. Hãy lo về nhà gói ghém áo quần, tìm xem còn gạo muối và các thức ăn
gì khác thì mang sang đây. Ta cũng thu gói phần ta cho cháu.
Cụ Thiên Hộ lục lọi và còn
bao nhiêu gạo, khoai, muối, mắm trong nhà gói ghém cả lại. Khải Hùng cũng chạy
sang, hai tay cầm gói nhỏ. Hai gia đình đều nghèo, lâu nay bị loài thủy quái
tác hại họ gần như cạn sạch cả thức ăn. Cụ Thiên Hộ nhìn thấy Khải Hùng vẻ mặt
rắn rỏi mặc dù đang tuổi thơ ngây, lòng cũng hơi yên. Cụ tắt đèn và cùng đi với
Khải Hùng ra bờ sông. Bốn bề vắng lặng không nghe một tiếng động nào. Chỉ xa xa
tiếng gà eo óc và thỉnh thoảng giọt sương rơi nhẹ trên cành.
Cụ Thiên Hộ giúp Khải Hùng bỏ
đồ vật xuống một chiếc thuyền chài nhỏ của Khải Hòa cột ở ven bờ, rồi kéo đứa
bé vào lòng, cụ bảo :
- Ta không biết sau này có gặp
lại con đặng không nhưng cầu trời phù hộ cho con trên bước đường phiêu lưu. Lúc
năm sáu tuổi con đã biết nghiệp bơi chèo thì bây giờ con phải tự chèo mà tìm nẻo
sống. Mười hai tuổi đầu vẫn là tuổi ăn chơi của những con nhà khá giả. Song
chính vì ta nghèo mà chúng ta phải nỗ lực nhiều hơn, phải tập dạn dày, tu luyện
sớm hơn để mà đối phó với đời. Con có biết đời là gì không ? Là cơm ăn áo mặc
hàng ngày, là sự đối xử hàng ngày của ta đối với xã hội. Đời còn là bao nhiêu
tình thương, bao nhiêu tai họa, bao nhiêu nổi giận, bao nhiêu hạnh phúc. Phải tập
đón, tập đỡ, nhưng cuối cùng phải giữ lấy phần thắng cho mình. Đời là một con
thủy quái, con à. Không ai thắng được thủy quái một mình, mà phải hợp sức cùng
những kẻ khác đồng chung chí hướng với mình. Ông cụ xoa đầu thằng bé, nghẹn
ngào nói tiếp :
- Bây giờ con đi về đâu, chắc
con cũng không biết nữa. Hãy chèo cho mạnh ra khỏi vùng này trước khi mặt trời
lên cao. Ta chỉ cho con hai nẻo mà đi : đến ngã ba sông, nếu rẽ bên trái thì
năm ngày sau con sẽ đến bến Liêu giang. Đến đây bán thuyền lên bộ, đi chân độ
hai mươi ngày sẽ đến kinh thành. Tại đây, hỏi thăm nhà của An Dương Hầu rồi tìm
người mẹ của con tên là Bạch Tuệ trong số kẻ hầu người hạ. Mẹ con xa con từ khi
con mới một, hai tuổi đầu, bây giờ hai bên khó mà nhìn nhận nhau được. Khốn nỗi,
cha mẹ của con lấy nhau cũng không có chút gì là tặng vật để làm kỷ niệm mà đem
đối chiếu làm tin. Nhưng được con giống cha con như đúc. Nếu mẹ con còn lòng
thương con, thì ắt sẽ nhận biết được dễ dàng. Cái kỷ niệm quí nhất vẫn là tình
thương. Nếu quên con rồi thì có bao nhiêu kỷ vật cũng là vô ích. Nhưng nếu con
không đi về ngã trái để tìm mẹ con thì con có thể chèo về ngã phải và đi khoảng
hai mươi ngày thì sẽ đến bến Hồi giang. Lên bến, con tìm hỏi Trịnh Thiết Hào,
chủ tiệm rượu. Con tự giới thiệu là cháu của ta, và để làm tin con đưa cái ống
điếu này. Đây là cái điếu bằng gỗ thạch đàn mà Thiết Hào đã đẽo gọt cho ta từ
khi bọn ta còn sống ở vùng rừng núi Thập Sơn. Đưa xem, rồi con giữ lấy, đó là
chút vật của ta gởi gấm cho con để nhắc cho con nhớ mấy điều này...
Cụ Thiên Hộ !ấy ra một ống
điếu cũ đen bóng, trao cho Khải Hùng rồi tiếp :
- Mỗi khi nhìn chiếc điếu
này con hãy nhớ lấy ba điều ta dặn đinh ninh : Một là đừng quên cái gốc của
mình. Cha con làm ruộng, chày lưới, sống đời chất phác, hiền lành, chứ không phải
kẻ cao sang quyền quí. Con có nghèo nàn hay sung sướng cũng đừng quên cái gốc
mình mà học lấy những thói ti tiện của người sa đọa hay thói hống hách của kẻ
làm nên. Hai là nhớ rằng thủy quái là loài hung ác lớn lao như thế mà cha con vẫn
đâm nó chết được. Cái khó bao nhiêu ta vẫn làm được, nhưng cha con không chỉ giết
được nó một mình, còn phải nhiều người góp sức. Phải tin tưởng ở tài năng của
mình nhưng đừng tưởng rằng chỉ có riêng mình mới làm nổi được việc lớn, mà phải
biết hợp sức với kẻ khác. Ba là hãy vì lợi ích nhiều người mà gắng sức mình. Đừng
nghĩ khư khư lấy quyền lợi mình mà chết. Giết con thủy quái là để cứu mình mà
cũng cứu người. Muốn tránh ích kỷ thì hãy đem cái lo âu của ta góp vào cái lo
âu của thiên hạ. Thôi, còn trẻ mà ta nói chuyện dông dài của người lớn tuổi, e
con không sao nhớ được. Chỉ ghi tóm tắt ba điều trong trí nhớ con : Đừng quên
nguồn gốc, hãy tự tin minh, đừng ngại gian khổ, ham lợi riêng thì mới mong nên
người có giá trị được. Rồi đây cuộc đời sẽ dạy dỗ, khuyên răn hay trừng trị
con, chứ ta không sao nói hết. Những chân trời xa lạ sẽ đón chờ con, những ngày
đói rét đau khổ, đọa đày sẽ đe dọa con. Con đi với nỗi khổ nhưng còn niềm tin ở
tương tai. Ta sẽ ở lại trong cảnh bình thường, héo hắt và chết giữa cảnh đợi chờ.
Ngày mai trên bờ sông Dương Châu sẽ thêm một ngôi miếu nữa để thờ thủy quái !
Thực là mai mỉa, kẻ trừ mối hại thì bị trừng phạt kẻ gieo tai biến thì được tôn
quí.
Khải Hùng không sao nén được
nước mắt nhưng chẳng dám khóc to sợ phiền lòng cụ Thiên Hộ, vội vàng quay đầu
nói trong nghẹn ngào :
- Cháu xin ghi xương tạc dạ
những lời cụ dạy. Dù trôi nổi đến nơi nào cháu cũng quay về quê hương nơi có nấm
mồ cha cháu và hình bóng cụ.
Nói xong, Khải Hùng cúi lạy
cụ Thiên Hộ. Cụ đưa nó xuống thuyền, mở dây dỏng và trao cho nó mái chèo :
- Nhớ giữ mình, cháu đi phen
nầy là để lập thân.
Giọng cụ như lạc hẳn đi. Từ
giữa sông lờ mờ trong sương khuya vẳng lại giọng nói yếu đuối của thằng bé :
- Chúc cụ ở lại mạnh giỏi…
Rồi đất trời trở lại quang cảnh
im lìm, vắng vẻ. Xa xa có tiếng chèo khua nước, nhưng nhỏ nhẹ làm sao, khiến cụ
già ngồi trên bờ sông xót xa bùi ngùi, tưởng như tất cả những niềm lưu luyến
trên cõi đời này đều lần lượt bỏ mình mà đi, để mình trơ trọi giữa chốn hoang
vu. Nhưng khi cặp mắt già nua không còn nhìn thấy gì hết trong sương khuya, khi
đôi tai mệt nhọc không còn nghe thấy gì nữa trên sông vắng, cụ già đứng lên,
quay lại xóm thôn đang ngủ im lìm và tìm lại nỗi niềm yên tĩnh trong tâm.
Khải Hùng cúi rạp mình trên
chiếc thuyền nhỏ cố hết sức chèo, đôi tay thoăn thoắt đẩy làn nước lạnh của mặt
sông về sớm còn quyện hơi sương dày đặc. Thỉnh thoảng nó mới ngóc đầu lên nhìn
vội hai bên bờ sông để thấy cảnh vật dần dần đổi khác, những xóm nhà nhỏ biến dần
nhường chỗ cho những đồi cỏ, những rừng cây, những lau lách um tùm thỉnh thoảng
điểm một mái lều rách nát của kẻ phá rẫy khai hoang nghèo khổ. Đến khi cánh tay
rã rời, Khải Hùng biết mình đi đã khá xa nhưng vẫn không dám dừng lại nghỉ
ngơi, cố hết sức chèo. Mồ hôi tuôn ra khắp người dầm dề như tắm và trong sự mệt
mỏi cùng cực, tấm lòng đứa bé tự nhiên xúc động cho cảnh ngộ minh, bỗng tuôn nước
mắt dàn dụa hòa lẫn mồ hôi ướt đầm cả mặt. Lâu lắm nó mới cố nén được lòng, tự
nhủ : "Bây giờ ta chỉ còn trông cậy mỗi nơi ta, để cho lòng mình yếu mềm
là tự giết chết". Rồi gạt nước mắt, nó lại tiếp tục bơi chèo, cắn chặt
răng lại, vận dụng bao nhiêu sức lực trong người quạt nước, đẩy thuyền tiến tới.
Mặt trời từ từ hiện lên sáng tỏa phương đông, chiếu xuống rạng rỡ trên mặt sông
rộng, phản chiếu vào mặt Khải Hùng làm cho lóe sáng khiến tay chèo của nó càng
thấy khó khăn. Nó như một người mù lòa cắm cúi mà chèo, chỉ biết còn chèo là
còn sống, và chỉ có tự tay điều khiển con thuyền của mình thì mới đi đến bến bờ
tương lai. Càng trưa, nắng càng gay gắt, tay chân rã rời, mồ hôi ướt đẫm, Khải
Hùng vẫn không nản lòng chèo chống. Lấy chiếc nón rách đội trên mái đầu, Khải
Hùng vừa vuốt mồ hôi trên mặt vừa đẩy mái chèo. Trong đầu thơ trẻ của nó tự nảy
ra những ý nghĩ : "Có lẽ cuộc đời mỗi người cũng như là kẻ chèo thuyền
trên sông. Ai chịu nỗ lực thì đến bờ mong đợi, ai kém tay chèo thì cứ lững lờ
trôi giạt vào chốn phiêu lưu vô định. Bao nhiêu sóng nước chập chờn chỉ chực nhận
chìm chiếc thuyền cũng là hình ảnh bao nhiêu cảnh khổ ở đời chỉ muốn xô ngã con
người. Không, ta phải lướt tới, vượt qua, nhớ lời dạy bảo của cụ Thiên Hộ."
Đến lúc mặt trời lên đến đỉnh
đầu thì Khải Hùng thấp thoáng thấy trước mặt có nhiều ghe thuyền tấp nập và con
sông rẽ làm hai nhánh. Nó biết đi khá xa rồi, đã đến nơi ngã ba sông, một nẻo
bên trái dẫn về Liêu Giang đưa đến kinh thành, một nẻo bên mặt dẫn về Hồi
Giang, chỗ ở của Trịnh thiết Hào.
Chèo gần tới ngã rẽ, tấm
lòng đứa bé sinh ra hồi hộp khác thường. Đi về ngã nào ? Nó thấy phân vân khôn
xiết. Tìm đến người mẹ lạc loài không sao rõ được hình dung, hay tìm đến người
bạn già của cụ Thiên Hộ mà nó chưa hề gặp mặt ? Tự nhiên cánh tay bơi chèo của
nó yếu dần và nó băn khoăn tự bảo : "Về đâu bây giờ cũng là đi vào cuộc đời
vô định. Nhưng đã đến lúc phải chọn một đường. Tùy sự chọn lựa mà đời của mình
cũng sẽ thay đổi". Nó lại lờ mờ thấy rằng con người đứng ở chỗ ngã ba sông
cũng như đứng trước nẻo đời nhiều hướng. Nó bị bắt buộc phải quyết định sự chọn
lựa quá sớm nhưng làm thế nào. Nếu cứ chần chờ lưỡng lự ở đây thì bọn nha lại
cho thuyền đuổi kịp bắt mà giết đi thì uổng bao nhiêu công sức chèo chống suốt
nửa ngày trời. Nó nhắm mắt lại, cố gắng hình dung hai con đường đi trước mặt.
Con đường tìm mẹ sao mà mơ hồ quá sức. Ở nơi người mẹ xa xôi không có chút tình
liên lạc từ khi nó còn bé bỏng đến giờ, nó không tìm thấy một sự thiết tha nào
cả mà khi nghĩ đến lại cảm thấy lòng sợ hãi, e dè. Rủi nàng Bạch Tuệ đã qua đời
rồi thì ở giữa chốn kinh thành xa lạ nó sẽ dựa cậy vào ai ? Trong lòng Khải
Hùng đôi khi cũng thấy khát thèm hình ảnh gần gũi âu yếm của một người mẹ như sự
ước muốn được nỗi chở che của mọi đứa trẻ cô độc, nhưng nó tự biết cuộc đời của
mình phải chịu những sự thiếu thốn lớn lao khó được đền bù và đành âm thầm nén
lại những nỗi băn khoăn tình cảm. Nó lại quen sống ở nơi ruộng đồng, sông rạch,
hình ảnh lờ mờ của chốn thị thành náo động ngựa xe, theo nhiều miệng người thuật
lại, khiến nó e ngại. Bởi vậy nó ngước về nẻo Hồi Giang, như thấy ở trước mắt
mình hình ảnh hiên ngang của Trịnh Thiết Hào gần gũi thân mật chừng nào ! Nó tự
nhủ : "Người ấy là bạn của cụ Thiên Hộ chắc phải hiền lành tử tế như cụ
Thiên Hộ". Nó cúi xuống bọc áo của mình, bất giác thấy cái ống điếu thạch
đàn, cầm lên, và sinh một niềm tin tưởng vô hạn…
Lập tức, Khải Hùng quay thuyền
về nẻo Hồi Giang và chèo dần vào một khúc sông càng ngày càng hẹp tỏa bóng mát
lạnh từ những lùm cây rậm rạp ở hai bên bờ. Nó thấy đói lả nhưng không dám ngừng
nghỉ lại, vội lấy một ít cơm nguội của cụ Thiên Hộ gói cho ban sáng vừa nhai vừa
chèo. Mặt trời ngã dần về Tây, bóng chiều tỏa xuống sau lưng, gió mát gờn gợn
thổi nhẹ trên sông khiến cho Khải Hùng cảm thấy dễ chịu. Những sự mệt mỏi ban
sáng như xoá tan dần, và nó nhận thấy hình như đã lướt được khó khăn trong lúc
ban đầu.
Càng về chiều, giòng sông
càng hẹp, gió càng thổi lạnh. Khải Hùng nghe hai bên bờ cây cối xạc xào và chim
về tổ từng đàn tranh nhau chí chóe trên những ngọn cao. Đợi lúc giòng sông tắt
nắng và khói sông tỏa lên từ từ mờ mịt, nó mới cố gắng chèo thêm một quãng khá
xa để tìm một bến sông nào có thể nghỉ lại đêm nay để mai đi sớm. Đến một khúc
hẹp, có gốc si già từ bờ nhô ra tỏa tàng lá rậm như một mái lều, Khải Hùng ghé
thuyền vào nghỉ thì hoàng hôn đã phủ xuống con sông vắng những vạt bóng tối và
sương mù dâng lên gần như dày đặc khắp cả mặt sông.
Vừa toan buộc thuyền vào gốc
si già bỗng nhiên Khải Hùng nghe những tiếng kêu kỳ lạ vẳng lên. Tiếng kêu ban
đầu giống như một tiếng mèo hoang ẩn trong hố nhưng dần dần tiếng khóc từng hồi
của một trẻ thơ vẳng lên giữa mặt sông. Thoạt tiên, Khải Hùng cảm thấy ớn lạnh
khắp cả xương sống. Giữa chốn hoang vu, trong đêm tăm tối mịt mờ sương lạnh, phải
chăng đấy là những tiếng kêu khóc của những hồn ma lạc loài hiện lên để trêu ghẹo
người lạc lối ? Mỗi lúc tiếng khóc nghe càng thảm thiết, dập dồn. Khải Hùng
không phải là một đứa trẻ nhát gan. Nó từ nhỏ đã sống cuộc đời gian khổ, đêm
hôm đã từng lặn lội mò cua, bắt cá nên không hề tin nhảm nhí những chuyện hoang
đường vô lối về các hồn ma, bóng quỉ dọa người. Cái cảm giác sợ hãi ban đầu tan
đi, nó định thần nghe kỹ và lòng cảm thấy xúc động không yên. "Chắc là một
đứa trẻ con nhà ai lạc loài trôi nổi trên sông", nó tự bảo vậy. Rồi vội
vàng quờ quạng chèo thuyền lướt trong sương dày hướng về tiếng khóc trên sông
chèo đến. Càng đến gần, tiếng khóc càng rõ nhưng bây giờ chỉ còn là những tiếng
gào khan trong một cổ họng sắp tắt. Trong bóng tối, Khải Hùng nhìn thấy lờ mờ gần
thuyền có một mảng bè, trên đấy có một đứa trẻ độ chừng một tuổi tay chân bị bó
chặt lại, trên mình phủ đầy những tã. Nó tháo dây, ôm đứa bé lên thuyền. Đứa bé
được ẵm trong lòng, cảm thấy ấm áp, ngừng hẳn tiếng khóc. Nhân thấy lớp vải bọc
quanh toàn là những món lụa là, hàng vải đắt tiền, nó nghĩ : "Chắc là con
nhà khá giả bị sự rẻ rúng gì đây mà phải xô đuổi trôi giạt trên bè. Dù con của
ai cũng là mạng sống, ta phải cứu nó".
Khải Hùng ôm đứa bé trong
lòng suốt đêm để khỏi lạnh. Đứa bé thiếp đi từng chập, từng hồi và mỗi lúc tỉnh
giấc lại khóc thét lên. Biết rằng nó đói, Khải Hùng phải lui cui bươi than ủ dưới
lớp tro đặt trong chiếc nồi bể ở dưới lòng ghe để nhen lửa, thổi cơm.
Đứa bé có vẻ đói lắm nhưng
ăn rất ít xem chừng như không quen dùng cơm muối bao giờ. Tuy vậy, ăn xong nó
ngủ yên giấc và Khải Hùng cảm thấy từ khi có đứa bé bên mình nó không còn thấy
cô độc nữa và giữa khúc sông vắng vẻ, bên những bờ bụi hoang vu, trong khoảng
đêm dài thăm thẳm, Khải Hùng tìm được ít nhiều ấm cúng như tìm được một nơi
nương tựa.
Mờ sáng, đứa bé khua động
làm cho Khải Hùng choàng tỉnh. Nó nhìn rõ vẻ mặt hiền lành của một đứa con gái
và thấy những vải tã bọc quanh, nó đoán chừng gia cảnh đứa bé cũng thuộc vào
hàng khá giả. Nhưng Khải Hùng không thể suy đoán xa hơn vì đâu đứa nhỏ phải chịu
ruồng bỏ như vậy, tuy trong đầu óc của nó lờ mờ nhận thấy cuộc đời vẫn còn lắm
sự độc ác, lắm nỗi tàn nhẫn không sao lường được.
Suốt cả ngày hôm ấy, Khải
Hùng chèo thuyền hăng hái hơn trước. Nó nghĩ rằng bây giờ nó còn phải lo cho một
người khác nữa và nó càng không nên chểnh mảng phút giây. Đứa bé không còn
khóc, nó nằm ở giữa thuyền, mở cặp mắt thao láo mà nhìn Khải Hùng. Nó độ năm
sáu tháng nên đã biết chú ý đến mọi việc xảy ra quanh mình. Sau những giờ trôi
nổi, bây giờ cảm thấy gần gũi một người lạ mặt, lại được đi trên chiếc thuyền bồng
bềnh nó chỉ còn biết ngạc nhiên mà thôi. Thỉnh thoảng Khải Hùng dừng chèo quay
lại và thấy con bé mỉm cười như đang chờ đợi một sự săn sóc. Nụ cười ngây thơ,
bé bỏng làm cho Khải Hùng cảm động khiến nó quên cả nhọc mệt. Nó nhớ lại trước
đây vẫn thường ước ao có một đứa em bất luận là trai hay gái để cùng vui vẻ nô
đùa, để được trông nom săn sóc. Con người đều muốn nghiêng về kẻ khác, đều muốn
san sớt lòng mình. Những ngày ở Mai Gia Trang nó vẫn quyến luyến với nhiều đứa
trẻ trong xóm, Khải Hùng nhớ lại con bé Tiểu Thanh hiền lành ở bên bờ sông
Dương Châu và nảy ý dùng cái tên ấy để gọi đứa em lưu lạc của mình. Mỗi khi nó
kêu lên : "Tiểu Thanh ! Tiểu Thanh !" hoặc hỏi han một cách trìu mến
: "Sao Tiểu Thanh không ngủ đi, hở ?", "Tiểu Thanh đã đói bụng
chưa ?" thì con bé có vẻ ngơ ngác hết sức. Khải Hùng biết rằng đứa bé vẫn
có một cái tên nào đấy nhưng cứ gọi là Tiểu Thanh rồi thời gian sau nó sẽ quen
đi.
Con thuyền cứ thế lướt trên
dòng sông như muốn kéo dài mãi mãi. Khải Hùng tuy bị bận rộn hơn trước nhưng thấy
vui hơn. Khi mặt trời lên cao nó phải lấy chiếc nón tả tơi của mình che cho đứa
bé và phơi đầu dưới nắng suốt ngày. Những lúc gặp mưa thình lình, Khải Hùng phải
ôm đứa nhỏ vào lòng, lấy nón đỡ lấy chiều mưa tạt vào và đành chịu ướt. Lần đầu
tiên Khải Hùng cảm thấy niềm vui phơi phới được lo cho kẻ khác, và sự thiệt
thòi của mình được đền bù lại bằng những khoan khoái tinh thần khó tả.
Một hôm, Khải Hùng tỉnh giấc
nhưng không sao ngồi dậy được. Nó thấy trong người bần thần, cổ họng khô cháy,
hai bên thái dương hừng hực như bị lửa đốt. Biết rằng những ngày dầm mưa dãi nắng
đã khiến cho mình bị ốm, nó cố gượng dậy nhiều lần nhưng không làm sao dậy nổi.
Mãi đến khi mặt trời lên cao thiêu đốt gay gắt, mồ hôi nó tuôn ra dầm dề, bấy
giờ nó mới cảm thấy nhẹ nhàng đôi chút. Nó gượng dậy cố chèo nhưng chỉ được một
quãng đã thấy hai tay rã rời. Cuối cùng nó đưa thuyền vào bờ núp dưới một lùm
cây sà trên mặt nước và cột thuyền để nghỉ. Suốt ngày Khải Hùng nằm thiếp đi,
không biết gì đến chung quanh. Con bé Tiểu Thanh ngồi bên cạnh nó hoặc nằm xuống
bên nó không dám kêu khóc một lời. Dường như con bé cũng thấy một sự khác thường
xảy ra và đâm e ngại. Mãi đến lúc trời tối, Khải Hùng mới tỉnh cơn mê. Nó gượng
dậy, ôm con bé vào lòng, vỗ về nó và thấy trong người hơi tỉnh nhưng đầu óc vẫn
còn choáng váng. Mấy hôm nay không những chịu cảnh dãi dầu, Khải Hùng còn đồ ăn
ít quá. Gạo khoai sắp hết và Khải Hùng không muốn cho Tiểu Thanh phải đói.
Trong bóng đêm dày, phủ đặc cả sông, chợt Khải Hùng nhìn thấy xa xa, vào phía
trong bờ có ánh lửa sáng chập chờn, Khải Hùng gượng dậy, lấy chiếc đãy vải hôm
nào đã cột đứa bé vào bè cột chân nó vào khoang thuyền rồi bảo : "Tiểu
Thanh ngồi đây, đừng có trườn xuống sông nhé ! Ta đi tìm người trong xóm rồi sẽ
về ngay". Trong bóng đêm Khải Hùng như thấy đứa bé gật đầu. Nó đứng lên,
loạng choạng leo các sườn dốc mấp mô và hướng về phía ngọn lửa, bước chân lảo đảo
nhiều lần như muốn ngã quị. Khải Hùng phải đi khá lâu, qua nhiều bờ bụi và có cảm
tưởng như mình đang lạc vào trong một quãng rừng hoang. Cuối cùng ánh lửa rõ dần
và Khải Hùng đến một ngôi nhà sơ sài bên trong thấp thoáng có mấy bóng người
đang ngồi chuyện vãn. Không dám bước vào, nó đứng nép dưới gốc một cây lớn sau
nhà để nhìn.
Qua khung cửa liếp, Khải Hùng
trông rõ ba người to lớn đang ngồi nói chuyện. Vẻ mặt người nào trông cũng hung
hăng khác thường. Một người có bộ râu quai nón vụt đứng dậy, chống hai tay vào
hông, đảo cặp mắt tròn xoe nhìn sang hai người kia rồi nói :
- Đợi gì ?
Người kia trả lời :
- Đợi ngày đả lôi đài, sau
ngày lễ trung thu sắp đến. Thiết Hào tổ chức dịp này để khoe tài với anh hùng bốn
phương, nhưng rồi hãy xem..
Và cười ha hả rất lớn gã tiếp
:
- Hạ nó trước mặt mọi người
để rửa mối nhục ngày nào cho nó biết tay. Ta cũng cần phải nhắc lại cho hai người
biết ngón võ bí truyền mà ta dạy cho hai người khi lâm vào thế nguy khốn là
ngón vô cùng lợi hại cần phải rèn luyện cho đến tuyệt kỹ mới mong xử dụng có kết
quả được. Việc gì, trên đời cũng có hai mặt, ngón võ hại người càng độc thì cũng
dễ bị người ta hại lại, nếu không cẩn thận đề phòng. Chỉ khi nào thấy mình yếu
thế mới tạo sơ hở cho đối thủ xông vào để hạ ngã mình, rồi sau đó mới dùng nó
được. Trước kia ta đã dạy cho bảy đứa đồ đệ mà sáu đứa bị giết chết vì đã nôn
nóng xử dụng ngón này, ngoại trừ Triệu Nguyên sống được là nhờ nó chưa áp dụng
ngón đó. Muốn cầm thanh gươm lớn thì phải có sức mạnh, muốn vượt đường xa thì
phải dùng ngựa ký, tài năng, trí tuệ chưa đủ dùng ngón hiểm độc mà đã vội dùng
thì càng mau chết mà thôi. Ta khuyên hai ngươi từ đây đến đấy, phải cố rèn luyện
cho thực tinh thông ngón ấy. Cốt nhất là hồi bị đánh ngã xuống thì phải xoay được
mình phóng cả hai chân vào ruột đối phương. Càng bị ngã mạnh thì càng đá mạnh,
tất cả bí quyết là ở đấy. Nếu tạo sơ hở vụng về, đối phương không đánh ta ngã
hoặc đánh ngã yếu, thế là hỏng hết. Giết được thằng Trịnh Thiết Hào phen này
thì ta nắm quyền bá chủ Hồi giang, tha hồ ta cho bọn ngươi mặc sức hoành hành.
Một người vẻ mặt ít khắc khổ
hơn và gầy gò hơn, từ nãy đến giờ chưa nói lời nào, cất tiếng hỏi :
- Nhưng huynh có chắc là Trịnh
Thiết Hào giết nàng Hồng Diệp để hại huynh không ? Tôi vẫn còn ngờ vực lắm.
Người có bộ râu quai nón tỏ
vẻ giận dữ, hét lên :
- Chứ đứa nào vào đấy nữa ?
Tường nhà của Phạm Lang Trung trừ phi Trịnh Thiết Hào thì chẳng có một kẻ nào
vào lọt. Lại còn cái cây thước sắt của nó gây nên án mạng chứ ai ? Ta thề một sống
một chết với nó phen này.
Nói xong người này ngồi xuống,
xem chừng nét mặt vẫn còn hầm hầm tức giận. Khải Hùng nín thở, lắng tai, ban đầu
nghe nói đến Trịnh Thiết Hào thì hết sức ngạc nhiên nhưng sau cùng nghe xong
câu nói của người râu quai nón mới nghĩ không thể là bạn của cụ Thiên Hộ mà chắc
là một gã trộm cướp nào trùng danh trùng tánh đấy thôi. Đứng lâu, hơi mệt, Khải
Hùng toan ngồi xuống chỗ gốc cây, bỗng thấy người râu quai nón vụt đứng dậy
nhìn đăm đăm về phía cửa liếp ra dáng nghi hoặc. Bỗng gã rút nhanh thanh kiếm
bên sườn, cau mặt :
- Quái, ta đánh hơi thấy người
lạ gần đây.
Lập tức hai người kia cũng
rút gươm đứng dậy. Khải Hùng khiếp hoảng, lại thêm sức yếu đã mấy hôm rồi nên
ngã lăn ra trên đất. Ba người cùng bước ra ngoài và cúi xuống nhìn Khải Hùng một
hồi rồi một người kéo nó dậy. Khải Hùng gần như ở trong tình trạng mê man không
hay biết gì, mồm chỉ lảm nhảm nói lên những tiếng ú ớ rời rạc. Đưa Khải Hùng
vào cạnh bếp lửa một lát, chờ tỉnh dậy, người râu quai nón bèn hỏi :
- Mày ở đâu đến đây ?
Rồi không đợi cho Khải Hùng
trả lời người ấy quay sang hai người kia nói tiếp :
- Xem thằng bé này nó giống
đứa con của thằng Phùng Siêu mà ta chọc cổ huyết hôm trước hay không ?
Người gầy hơn, vừa nhìn Khải
Hùng từ đầu đến cuối vừa trả lời :
- Thằng này trông già dặn
hơn nhiều nhưng ít thịt lắm.
Khải Hùng cố giữ bình tĩnh
thuật lại hoàn cảnh của mình nhưng nói chệch đi là cha mẹ bị chết vì nghèo đói
và không nhắc đến tên Trịnh Thiết Hào chỉ trình bày đi kiếm nơi sinh sống mả
thôi.
Ba người ngồi nghe không nói
gì. Bỗng người râu quai nón nói :
- Xem tướng mạo thằng này có
thể dùng được. Mày ở đây trông nhà cho bọn tao, rồi tao sẽ lo ăn lo mặc cho
mày.
Khải Hùng kể lại hoàn cảnh của
bé Tiểu Thanh và một mực xin đi. Người kia bỗng cười phá lên :
- Chao ôi, một mạng chết đói
của mày tự nuôi chưa xong lại còn đèo thêm một mạng nữa à ? Trông tướng mạo của
mày là tướng mạo ăn cướp thế mà toan làm việc tu hành, kể cũng lạ đấy. Thôi được,
mày về Hồi Giang thì mày cứ về. Đại Thường lấy cho nó một bao gạo và cho nó ít
hoàn thuốc giải cảm để nó đi cho khuất mắt.
Khải Hùng nhận những vật
cho, trong lòng run run cảm động. Nó tưởng phen này là không thoát chết nào ngờ
được cứu sống, trong lòng ngơ ngác không hiểu vì sao. Khi lạy tạ quay ra được
ít bước nó lại quay vào. Người trẻ hơn trong bọn hỏi :
- Thế nào ? Còn muốn gì nữa
? Chúng tao cũng không dư gạo hơn mày lắm đâu, đừng tưởng ở đây là kho lương thực.
Khải Hùng khép nép thưa :
- Quí ngài cho tôi bấy nhiêu
cũng đã nhiều rồi. Tôi chỉ mong ngày sau có dịp sẽ trả ơn này. Xin quí ngài cho
tôi biết tánh danh...
Cả ba người cùng cười. Người
có râu quai nón nói :
- Nếu không có đứa nhỏ chờ
mày dưới thuyền như lời mày nói thì nghe câu nói vừa rồi cũng đủ cho tao chọc
tiết mày rồi. Đi đi, đồ khốn ! Bọn tao không quen được sự trả ơn theo lối của
mày đã học. Bọn tao cũng không cần mày biết đến tánh danh.
Khai Hùng suy nghĩ rồi đánh
bạo nói :
- Thế thì xin ngài cho tôi
thêm chiếc nón rách.
Cả ba người cùng cười lớn và
người có râu quai nón gật đầu :
- À, thà là mày nói thế nghe
lọt tai hơn. Tao ghét những cái cung cách giả dối làm bộ nhớ ơn để mong kiếm
chác thêm đôi điều lợi. Cho mày cái nón lành đây.
Và người ấy đưa chân khều từ
dưới gầm giường một cái nón lá còn tốt, cầm lấy ném cho Khải Hùng.
Khải Hùng vừa quay ra vài bước
thì thấy lố nhố một đám người hùng hổ xông vào. Nhìn kỹ thì họ ăn mặc theo lối
sai nha ở chốn quyền môn. Một gã đi trước cầm thanh đao lớn hầm hầm bước tới, một
gã theo sau kẹp bé Tiểu Thanh trong nách khiến cho con bé dẫy dụa kêu khóc kinh
hoàng. Ba bốn người theo sau, kẻ cầm đuốc, người cầm đao, bừng bừng sát khí.
Khải Hùng hoảng kinh lùi lại,
chạy vào trong lều.
Gã sai nha đứng trước cửa,
chỉ Khải Hùng, quát vào :
- Mày có phải là Khải Hùng
đó chăng ? Khai mau !
Khải Hùng chưa biết đối đáp
thế nào thì người có râu quai nón, hét lên :
- Các ngươi là ai mà đêm hôm
lại hùng hổ kéo đi vây bắt một đứa trẻ con ?
Gã sai nha đáp :
- Ta đây là Đề Hạt họ Liêu
dưới quyền quan lệnh Dương Châu, được phái tróc nã thằng con của tên phiến loạn.
Đến đây ta chỉ tìm thấy dưới thuyền có con bé này, chắc là em út của nó. Nhờ có
ánh đuốc mà ta tìm đến được đây, chắc là nó tới cầu xin các ngươi ẩn náu. Nhưng
con cái của đạo tặc là mầm phản loạn sau này có hại cho dân cần phải nhất luật
diệt trừ.
Người râu quai nón bèn hỏi :
- Cha nó làm gì mà gọi là đạo
tặc ?
Liêu Đề Hạt ấp úng rồi quát
:
- Đạo tặc là đạo tặc chớ còn
làm gì ? Các ngươi không phải là hạng có quyền tra vặn được ta. Nếu không muốn
mang tội chứa chấp kẻ giặc thì nộp mạng nó cho sớm.
Người râu quai nón cười to rồi
đáp :
- Này Liêu Đề Hạt, ngài có
ba điều lầm lẫn. Thứ nhất là cái lầm lẫn đây là nhà của thường dân nên ngài ỷ
quyền cậy thế mà nạt nộ người. Xin ngài nhớ cho đây là sào huyệt của bọn Bắc
Sơn. Lầm lẫn thứ hai là ngài ngờ ta chứa chấp tên giặc. Thực ra nó chỉ lả một đứa
trẻ đáng thương còn biết xót thương mạng người vô tội mà cứu trên sông, đến đây
đói khát xin ăn khiến ta thương tình mà cấp gạo muối. Ba là ngài đã dùng lầm
hai tiếng đạo tặc. Thế nào là đạo tặc, ngài có biết không ? Như thằng Lệnh Trấn
Dương Châu ngồi cao bóc lột dân đen, ỷ quyền cậy thế hại người vô tội mới chính
là đạo tặc đó. Và cả ngài đây cũng là một thứ đạo tặc chính hiệu vì đã a tòng
phụ lực cho bọn gian ác công khai.
Liêu Đề Hạt khoa đao hét lớn
:
- Phường giặc cướp lộng
ngôn, coi chừng mất mạng.
Người râu quai đón cười to :
- Đừng chọc vào Tiêu Diện Hổ
mà bị rơi đầu tức khắc.
Nghe mấy tiếng Tiêu Diện Hổ,
Liêu Đề Hạt thất sắc nhưng vội trấn áp tinh thần kêu gọi thủ hạ :
- Hãy xông vào bắt trói hết
bọn chúng cho ta.
Tên sai nha kẹp bé Tiểu
Thanh vội ném đứa bé vào một bụi cây rồi rút đao cùng cả bọn áp tới. Diện Hổ
quay lại bảo người gầy gò từ sớm đến giờ vẫn ngồi bó gối ở bên bếp lửa :
- Đại Thường ! Dành mấy cái
mạng sâu dân mọt nước cho nhà ngươi đó.
Lập tức Đại Thường vụt dậy.
Vừa lúc ấy Liêu Đề Hạt quạt đao chém tới. Đại Thường né tránh rồi nhanh như chớp
phóng một đá vào ngay cánh tay họ Liêu khiến lưỡi đao bắn tung lên xà nhà. Lập
tức Đại Thường hươi quyền nhảy đến chỉ trong vài hiệp đã nắm lấy họng họ Liêu
và trước sự kinh ngạc của bọn sai nha, con người to lớn vạm vỡ của vị Đề Hạt đã
bị gã Đại Thường ném tung lên không rồi đỡ lấy dùng làm khí giới nạp vào tấn
công cả bọn nha thuộc. Bọn nha thuộc bắt buộc phải hươi đao chống đỡ và chém
lên mình Đề Hạt không biết bao nhiêu là nhát. Liêu Đề Hạt bị nắm cứng ở trong
tay Đại Thường chỉ biết kêu than thảm thiết. Đến lúc liệu bề không chống đối nổi,
cả bọn nha thuộc cắm đầu chạy ra bờ sông thì gã Đại Thường vác xác Đề Hạt chạy
theo, đợi cho cả bọn vừa đến đầu dốc vụt ném thật mạnh xác của Đề Hạt vào cả
đám đông. Chỉ nghe tiếng "vút" và bọn nha thuộc bị đẩy văng tuốt ra
ngoài mặt sông lõm bõm rơi xuống giữa dòng nước lạnh rồi bị vướng giày, vướng
dép không sao bơi được vào bờ đành chết chìm hết cả lũ.
Đại Thường ngồi im trên bờ đợi
cho mặt sông trở lại vắng lặng rồi mới thong thả quay vào. Bấy giờ Khải Hùng đã
vào bụi cây vực bé Tiểu Thanh đem hơ bên lửa. Đại Thường cười gằn rồi nói :
- Cho chúng xuống chầu diêm
vương cả rồi. Chỉ tại cái thằng nhỏ này mà ông không nghỉ yên được đêm nay.
Nói xong chạy lại nắm lấy cổ
họng Khải Hùng. Nhưng Tiêu Diện Hổ vội bảo :
- Đại Thường tha tội cho nó.
Một thằng bị giết phải là kẻ ác thì đằng còn sống phải là kẻ thiện. Giết luôn kẻ
thiện thì còn kẻ ác đâu nữa. Trời xui đất khiến thằng bé con này gặp gỡ chúng
ta cũng là đại phước cho nó. Từ nay, mày có thể cứ ruổi dong ngàn dặm cũng chẳng
còn ai đuổi bắt mày đâu. Thôi cho chúng mầy được ngủ lại một đêm ấm áp, rồi mai
cút đi cho sớm.
Gã Đại Thường và chàng trai
trẻ lại lấy mảnh chiếu khoanh tròn bên lửa mà nằm, phút chốc đã nghe ngáy vang
như sấm.
Chương 04
Sáng ngày hôm sau Khải Hùng
thấy mình tỉnh hẳn nhờ hoàn thuốc giải cảm linh diệu lạ thường. Nhớ lại sự việc
trong đêm vừa qua nó tưởng như vừa trải qua một giấc chiêm bao. Nó muốn cáo từ
các vị ân nhân để lên đường nhưng nhìn chung quanh không thấy ai cả.
Nó nhận thấy những người mà
nó vừa gặp tuy diện mạo hung dữ, ăn nói cộc cằn nhưng bản tâm rất quảng đại.
Còn bọn sai nha và tên hiệu úy ăn mặc sang trọng, tướng mạo phốp pháp lại là một
lũ gian ác chỉ chực hãm hại những người vô tội. Khải Hùng suy nghiệm và trí não
đơn giản của nó bắt đầu nhận thấy cái bề ngoài có thể nhiều khi trái ngược hoàn
toàn với cái bề trong và đó cũng là một dịp để nó tìm hiểu sau này trên đời.
Nhờ được ăn uống no đủ nên
Khải Hùng chèo rất nhanh và mấy ngày sau, xa xa Khải Hùng nhìn thấy ghe thuyền lố
nhố chen chúc ở một bến sông thấp thoáng có nhiều nóc nhà ẩn hiện. Khải Hùng ẵm
Tiểu Thanh đưa cao lên khỏi đầu mình cho nó nhìn phía trước, rồi bảo :
- Hãy cười đi bé Thanh ơi !
Chúng ta đã đến nơi rồi.
Bé Thanh vẫy tay và nhoẻn miệng
cười. Khải Hùng cảm thấy nôn nao một niềm vui, nhưng liền sau đó tự nhiên trong
lòng cảm thấy buồn bã y như bắt đầu từ đây Khải Hùng mới thật xa lìa cảnh cũ,
quê xưa, không có phương gì về lại để mà thăm viếng những kẻ quen thân, nhất là
cụ già Thiên Hộ. Tự nhiên Khải Hùng chèo chầm chậm lại như muốn kéo dài cái cảnh
lênh đênh trên một dòng sông đã thành quen thuộc.
Nó cúi xuống khỏi be thuyền
uống một ngụm nước giữa dòng và tưởng như từ nơi Dương Châu xa khơi, cách trên
hai mươi mấy ngày thuyền chạy, vẫn trôi đến đây làn nước quen thuộc ngọt ngào ý
vị quê hương.
Khi đến bến, Khải Hùng nhận
thấy có nhiều ngả sông rộng hơn chạy về lối khác, ghe thuyền đi lại khá nhiều
và con sông nó vừa trải qua chỉ là một đường lối tắt trở về Dương Châu, xuyên
qua những nẻo rừng núi hoang vu. Hỏi biết là bến Hồi giang, Khải Hùng cột thuyền
nơi bến rồi ẵm Tiểu Thanh tìm nhà cụ Trịnh Thiết Hào. Chẳng mấy chốc tới một
ngôi quán nhỏ ở cuối dãy phố lá và thấy một cụ già hình vóc to lớn, tướng mạo
gân guốc đường bệ khác thường ngồi ở quầy hàng. Đoán chừng đấy là người mình
mong gặp, Khải Hùng đặt Tiểu Thanh ngoài cửa khép nép tiến vào chào thưa rồi lễ
phép trình bày cảnh ngộ của mình. Trịnh Thiết Hào - người già ấy - chăm chú ngồi
nghe, đôi mày nhíu lại, phóng hai con mắt tuy đã già nua song còn sáng quắc vào
mặt Khải Hùng, và khi Khải Hùng dứt lời lấy chiếc ống điếu ra khỏi túi áo thì
ông chụp lấy đưa sát vào mặt ngắm kỹ và kêu to lên một cách vô cùng hỉ hả :
- Trời ơi ! ba mươi năm rồi
ta mới gặp lại nó đây. Nó nhắc cho ta một quãng đời không bao giờ quên được. Cầm
nó trong tay ta tưởng như đang đối diện với anh chàng Thiên Hộ và bao nhiêu kẻ
khác. Hay lắm ! hay lắm ! ai ngờ lại còn có ngày gặp gỡ lại mầy !
Rồi ông đưa ống điếu lên săm
soi, ngẫm nghĩ như nhìn một vật báu lạ nhất đời. Đoạn ông vừa gật gù vừa nói tiếp
:
- Số là cái ống điếu này ta
định tạc bằng đốt xương sống của thằng Hạng Lữ mà lại phải tạc bằng gỗ Thạch
Đàn. Nhưng thôi, chắc mầy không sao biết được lai lịch của nó bởi vì mày còn nhỏ
quá mà anh bạn già Thiên Hộ của tao không phải là người ưa nói đến chuyện của
mình. Mầy đã đến đây thế là quí rồi, nhà ta rất nghèo, vợ chết, chỉ còn một đứa
con gái muộn màng chưa biết giúp đỡ gì được. Cái quán này cũng khá đắt nhưng
người ta uống chịu khá đông mà hết phân nửa số người uống chịu không bao giờ trả
được một đồng nào. Xem mầy có thể giúp đỡ cho ta được lắm.
Khải Hùng vội trình bày hoàn
cảnh Tiểu Thanh và xin được chăm nom săn sóc đến nó. Nghe xong, Thiết Hào phá
lên cười lớn :
- Cũng lạ cho mầy ! Rõ là
con cháu của anh Thiên Hộ có khác ! Người ta đã ném nó đi mầy lại lượm lấy nó rồi
bắt ta phải phụ lực với mầy mà nuôi nó nữa thì kể cũng là phi lý lắm đó.
Ông dừng lời rồi lại cười,
nói tiếp :
- Thôi được, họa vô đơn chí,
cả hai đứa mầy cùng đến một lượt càng hay ! Thế cái con bé đâu rồi ?
Khải Hùng ra ngoài thấy con
bé đang ngồi dựa vào vách lấy tay vọc đất bèn cúi xuống bồng vào đặt trước mặt
cụ Thiết Hào. Cụ già ngắm nghía một lát hồi nói :
- Con bé này trông cũng khá
đấy. Tiếc là nó còn nhỏ quá không biết là con cái nhà ai. Nếu nó nói được ra lời
mà ta biết rõ cha mẹ của nó thì trong ba ngày ta sẽ lấy đầu bọn chúng đem về
xem chơi cho biết mặt mũi quân nào mà lại tàn nhẫn đến thế.
Rồi quay vào trong, ông gọi
:
- Yến Nhi đâu rồi ? Hãy ra bảo
đây.
Từ trong, một cô gái độ chín
tuổi, tóc để trái đào, nhanh nhẫu chạy ra, vòng tay cung kính, Thiết Hào bảo :
- Này, hãy ra mắt anh mầy,
và giữ lấy em mầy. À, chú bé tên gì đây ?
Khải Hùng đáp :
- Cháu tên Khải Hùng còn em
nhỏ này cháu xin gọi là Tiểu Thanh.
Yến Nhi cúi chào Khải Hùng rồi
chạy lại bồng Tiểu Thanh. Thiết Hào nói :
- Đùng một cái mầy có cả
anh, cả em mà không cần mất công chờ đợi gì cả. Thế mà có kẻ bảo ở đời không có
những cái bất ngờ thì là ngốc thật. Thôi, chú bé vào trong nghỉ ngơi rồi ngày
mai ta sẽ dạy công việc cho mà trông coi hàng quán.
*
Mờ sáng hôm sau, Khải Hùng vừa
mới tỉnh dậy bỗng nghe có tiếng Thiết Hào sau nhà, vội vàng ngồi dậy chạy ra
thì thấy ông già cởi trần để những bắp thịt rắn chắc đang giảng giải cho Yến
Nhi đứng ở giữa sân mình mặc một bộ đồ chẽn màu đen, lưng thắt một giải lụa điều.
Cụ Thiết Hào nói :
- Trong những lỗi lầm mà ta
đã vạch để con sửa chữa, con phải chú ý điểm này : Người con gái không thua kém
con trai mà còn có thể hơn hẳn con trai, nếu mình quyết tâm cầu tiến. Con nên
nhớ rằng bất luận là trai hay gái, con người đều có một sức vô hạn, hễ biết
phát triển thì càng cao xa không sao lường được cho đến tận cùng. Bây giờ con
hãy tập "Hồ Điệp quyền" mười lượt, rồi ta sẽ chỉ dẫn tiếp cho con.
Thiết Hào nói xong, phất tay
ra hiệu. Lập tức Yến Nhi nhảy tới một bước rồi lùi mình nhanh ba bước, xuống
trung bình tấn, hai tay chuyển sang tả, đưa về hữu, đồng thời chân mặt đá lên
và toàn bộ bắt đầu biến hóa mau lẹ, di chuyển linh hoạt trên sân y như một con
bướm chập chờn trong nắng. Khải Hùng đứng nhìn sững sờ, nhiều khi tay chân vô
tình bị lôi cuốn theo đà cử động của cô gái nhỏ, cũng vung vẫy một cách buồn cười.
Cụ Thiết Hào đứng yên không
nhúc nhích, chăm chú nhìn theo nhưng không bỏ sót một mảy may điệu bộ nào của Yến
Nhi và cứ mỗi lần cô gái thu người thấp xuống cho hai tay mềm dẻo uốn ra sau
lưng, chuyển mình về bên trái như một con bướm thâu đôi cánh lại thì lập tức cụ
Thiết Hào phất tay ra hiệu và Yến Nhi lại múa như cũ. Cứ thế đến lần thứ mười cụ
mới vỗ tay, dậm chân, ra hiệu bảo ngừng. Yến Nhi dừng lại, buông xuôi hai tay
thở dốc một cách vô cùng mệt nhọc. Cụ Thiết Hào bỗng quắc mắt, nạt lớn :
- Bớt thở lại ! Giữ lấy thần
sắc của mình !
Yến Nhi vội nén hơi thở mạnh
và cố giữ một vẻ bình thản. Cụ Thiết Hào nói dằn từng tiếng :
- Trừ khi mầy đã đuối sức gần
chết, không liệu cách gì có thể sống được thì không phải nói làm gì, bất cứ lúc
nào cũng nên giữ lấy thần sắc của mình, làm chủ khí lực của mình, không nên để
lộ cho tâm não mình biết rằng mình đang nhọc mệt. Kẻ nào mới mệt đã vội thở mạnh,
mới đau đã vội kêu rên thì đã đầu hàng sớm quá không thể nào chiến đấu được với
ai cả. Cái sức mạnh căn bản là cái sức mạnh ngầm chứa bên trong, vô hình vô lượng,
chứ không phải là cái sức lộ rõ rệt bên ngoài.
Ta xem con luyện tập hôm nay
đã khá nhưng ba lần ta thấy con lui về thế thủ "Hồ Điệp phân hoa" hơi
chậm và để hở bên sườn tay mặt. Liệu mà tập lại cho xong.
Đoạn ông cụ Thiết Hào xuống
tấn, chuyển hết gân lực cho toàn thân nổi rõ những bắp thịt lớn vẫn còn rắn chắc
như người trai trẻ, rồi đứng lên, bảo với Yến Nhi :
- Có ba cách hạ người : dùng
sức để đánh người, dùng mưu để hại người, dùng thế để trị người. Riêng về đàn
bà được phần uyển chuyển nhẹ nhàng nên dùng mưu, dùng thế thì lợi hơn nhiều.
Thành thử ta cho con luyện sự mau lẹ là vì lẽ ấy. Kẻ nào dùng sức hạ người là hạng
thấp kém bởi vì loài người khác với loài vật nhờ ở trí tuệ cho nên phải biết vận
dụng trí tuệ của mình. Dùng trí thì có mưu có thế nhưng ta không dậy cho con
dùng mưu vì là phương cách của một trí tuệ tầm thường không xứng với người võ
nghệ chân chính. Trí tuệ cũng có hai mặt, mặt xấu và mặt tốt, có thể nói rằng
dùng mưu là mặt xấu, dùng thế là mặt tốt vậy. Nhưng con phải nhớ rằng dù ta dạy
cho con luyện thế ta vẫn không quên cho con luyện mưu và luyện sức để con hiểu
rõ mà đề phòng, bởi vì trong đời, người ta quen dùng sức lực như phường súc vật,
hay quen dùng các mưu mô như hạng tiểu nhân. Hơn nữa, trong các môn võ không có
môn nào biệt lập hoàn toàn mà thực ra vẫn có tương quan chặt chẽ, do đó mưu vẫn
giúp thế mau thành, sức vẫn giúp thế dễ đạt, điều này càng tập rồi con sẽ thấy.
Cụ Thiết Hào dừng lời, đưa
tay chỉ lên đầu, lên ngực, xuống bụng rồi nói tiếp :
- Vì thế, quan trọng nhất là
môn điểm huyệt. Phàm cơ thể con người muốn giữ vững sự sống phải nhờ ở nhiều
năng lực, năng lực hô hấp của phổi, năng lực tuần hoàn của máu, năng lực thần
kinh của óc, năng lực tiêu hóa của ruột. Mỗi năng lực đều có một điểm trung tâm
là yếu điểm chính, và nhiều yếu điểm phụ. Đánh vào điểm trung tâm của bất cứ
năng lực nào là đánh chết con người, đánh vào điểm phụ là làm cho con người tê
liệt. Nhưng biết chỗ nào là huyệt chính, huyệt phụ, và làm cách nào để đánh cho
trúng, đó là cả công trình. Nay con gần mười tuổi, phải tập năm năm liệu mới
thành đạt. Từ nay cho đến cuối mùa này phải tập công phu sự mau lẹ bằng những
môn võ đơn giản rồi sẽ học tập những môn công phu khó hơn nhiều. Thôi, hôm nay
thế là tạm nghỉ được rồi.
Bỗng quay lại thấy Khải
Hùng, cụ hỏi :
- Thế nào ? Dậy sớm vậy sao
? Con bé Tiểu Thanh có khóc đấy không ?
Khai Hùng thưa :
- Thưa cụ suốt đêm nó ngủ được
yên, bây giờ vẫn chưa dậy ạ.
Cụ Thiết Hào bảo :
- Từ nay ta gọi con bằng
cháu, con cứ gọi ta bằng bác, bác cháu nhà ta cũng thân mật lắm rồi. Cháu có thấy
Yến Nhi luyện võ đấy chứ ?
Khải Hùng đáp :
- Thưa có. Thực là vô cùng đẹp
mắt. Cháu chỉ mong sao từ nay được bác cho cháu theo Yến Nhi luyện tập.
Cụ Thiết Hào nói :
- Trông hình vóc và khí sắc
của cháu rất tốt. Theo đuổi nghề này có thể thành công. Chắc anh bạn Thiên Hộ của
ta khi đưa cháu đến đây cũng nhắm vào lẽ ấy.
Khải Hùng nhớ lại khi ra đi
cụ Thiên Hộ không hề nói gì về Trịnh Thiết Hào là tay võ nghệ và suốt thời gian
ở gần bên cụ Thiên Hộ. Khải Hùng chưa từng nghe nhắc đến những tay võ hiệp hoặc
tỏ ra cụ có tài nghệ gì khác ngoài cái lòng tốt và sự khôn khéo trong cách đối
xử. Cụ cũng không khuyên Khải Hùng về bến Hồi Giang mà chỉ vế ra trước mắt hai
con đường, để tùy cho nó lựa chọn. Càng nghĩ nó càng thấy hành động của cụ
Thiên Hộ thực là khó hiểu nhưng không dám trình bày sự thực về sự chọn đường của
mình cho cụ Thiết Hào được rõ, ngại rằng sẽ vì thế mà bớt sốt sắng đối với mình
chăng.
Bỗng cụ Thiết Hào hỏi :
- Cụ Thiên Hộ có nói gì về
ta với cháu không ?
Khải Hùng đáp :
- Thưa không.
Cụ Thiết Hào lại hỏi :
- Thế cũng không hề nhắc đến
những chuyện gì về ngày xưa chứ ?
Khải Hùng thưa :
- Vẫn không ạ.
Cụ Thiết Hào ra vẻ suy nghĩ
rồi nói :
- Để ta sẽ nói qua cho cháu
rõ ít nhiều về ta và cụ Thiên Hộ, dù cho cháu còn nhỏ quá không sao hiểu hết việc
đời. Tuy vậy đã quyết dạy bảo cho cháu theo con đường võ nghệ mà không nói cho
cháu biết sơ qua cuộc đời mà bọn ta đã từng trải thì cũng đáng tiếc.
Cụ Thiết Hào kể :
- Khi còn rất nhỏ, lúc ấy,
ta còn cha mẹ và gia đình ta sống nghiệp thuyền chài. Một hôm gia đình ta đi đến
Liêu Giang, nửa đường bị bọn cướp chận đánh. Cha ta là tay võ nghệ khá cao cường
chẳng mấy chốc phá tan lũ cướp, nhận chìm cả lũ xuống sông. Tuy vậy em trai ta
bị chúng giết chết, cho nên lòng ta không sao chịu được căm hờn, nhận thấy có một
đứa nhỏ độ chừng một tuổi, có lẽ là con của bọn cướp ấy, bám vào mảnh ván loi
ngoi trên sông, ta vội chèo đến nắm lấy rồi ném ra xa. Bỗng lúc ấy có chiếc ghe
nhỏ trôi qua và một đứa bé trạc tuổi ta nhảy xuống vớt nó. Ta giận lắm bảo :
- Con của phường giặc cướp,
cứu vớt làm gì.
Đứa trẻ kia đứng trên be
thuyền của nó, ôm thằng bé vào lòng, nói sang :
- Trẻ thơ chưa mấy tuổi đầu,
làm gì nên tội mà gán cho nó oan nghiệt của người lớn. Người ném thì ta lượm,
ta đâu có giật lấy vật mà ngươi quí mến nâng niu.
Nói xong, cho thuyền đi. Ta
rất tức giận, nhưng thấy đuối lý nên đành làm thinh. Sau này đến bến Liêu Giang,
tình cờ ta gặp gỡ lại nó trong quán cơm và từ đấy cùng thân nhau. Đứa trẻ ấy là
Thiên Hộ. Thiên Hộ khác hẳn với ta nhiều điểm về tính tình, song ta rất thích
vì ta nóng nảy mà Thiên Hộ lại trầm tĩnh, ta thích dùng sức mà Thiên Hộ lại
dùng trí. Có thể nói rằng những gì mà ta thiếu thốn về phần tinh thần thì đều
có thể tìm thấy ở nơi Thiên Hộ.
Lúc gặp gỡ ta hỏi thăm đứa
con của tên cướp thì Thiên Hộ bảo rằng đã gởi về cho một người thân thuộc không
con, họ Lý, ở mạn Dương Châu để làm con nuôi. Nhớ chừng như Thiên Hộ đặt tên
cho nó là Khải Hòa, lâu ngày rồi không biết trí não ta có lầm lẫn hay chăng,
nhưng thôi việc ấy chẳng có gì quan hệ.
Khải Hùng lau nước mắt, cố
nén cho lòng khỏi bị lôi cuốn theo dòng xúc động nhưng trong tâm não cứ lởn vởn
cái hình ảnh cha mình ngày xưa phải sống một kiếp khổ sở rồi chết một cách oan ức
nên lòng chẳng yên chút nào. Sau đó nghĩ lại, nhờ cụ Thiên Hộ mà Khải Hòa đã sống
một đời lương thiện và giúp ích được cho nhiều người thì lòng nó cũng bớt khắc
khoải. Khải Hùng nhớ đến trường hợp cứu vớt Tiểu Thanh lại càng cảm thấy an ủi
vì mình đã xử sự hợp với ý nguyện của cụ Thiên Hộ.
Cụ Thiết Hào nói :
- Cháu nghĩ gì mà tư lự thế
? Ta với Thiên Hộ còn nhiều chuyện lắm, không sao kể hết. Sau ngày gặp gỡ ở
Liêu Giang ấy ta còn tìm cách gặp gỡ nhiều lần khác nữa và càng ngày càng thân
nhau hơn. Ðến khi cha mẹ qua đời, ta tìm đến Thiên Hộ lúc ấy cũng mồ côi, rủ đi
lập nghiệp. Ban đầu ra chốn kinh kỳ, chúng ta cũng gặp lắm sự vất vả nhưng cả
hai cùng thấy rằng ở đấy không phải là nơi có thể xây dựng sự nghiệp lâu dài. Bắt
đầu từ đó đã có sự chia rẽ. Ta thì chọn lấy con đường võ nghệ, cho rằng ở trong
cuộc sống còn kẻ cường quyền áp bức và công lý chưa được phân minh thì chỉ có dụng
võ là thượng sách. Còn Thiên Hộ thì cho rằng trau dồi tinh thần là chính, lấy sự
đạo đức, lẽ phải mà khuyến thiện người bởi vì con người ai cũng hướng về những
sự chính đáng như nước nghiêng về chỗ trũng. Ban đầu còn nhân nhượng nhau, sau
càng ngày hai bên đối nghịch càng găng không ai chịu thua ai cả, rốt cuộc đưa đến
một cuộc xô xát và cố nhiên là ta thắng thế vì ta có theo đuổi võ nghệ từ nhỏ.
Kể ra cuộc xô xát này là do ý ta muốn vậy chứ Thiên Hộ bao giờ cũng tránh sự đụng
chạm, xem như mọi sự tranh chấp bằng võ lực là xâm phạm đến giá trị con người.
Lúc ấy ta còn trẻ, còn hăng,
chỉ cốt thủ thắng cho mình nhưng sau khi hạ xong Thiên Hộ ta lại thấy không yên
lòng, hình như ta đã làm điều gì tội lỗi khi ta đánh bại một kẻ không dùng võ
khí như ta. Từ đây, mỗi người mỗi ngả. Ta theo học về các môn võ nghệ, đi khắp
đó đây, dùng tài võ nghệ định mở một lối đi trong đời, nhưng rốt cuộc ba lần đầu
quân, ba lần bãi chức vì ta không sao chịu được những sự hành hạ của bọn cầm đầu
bạo ngược hống hách. Cuối cùng ta giết một viên hiệu úy vì thấy y đã bốn lần
đánh người dưới tay của y. Ta bị vào ngục, rồi ta vượt ngục, cải dạng đi khắp
đó đây làm nên lắm sự ly kỳ, gây nên nhiều phen sóng gió, cuối cùng những kẻ đã
chịu ơn đều xa lánh ta, ta phải trốn vào sống ở rừng núi Thập Sơn. Nơi đây ta lại
được gặp anh bạn Thiên Hộ ngày xưa cũng là lang bạt kỳ hồ.
Cuộc tái ngộ này thực là đặc
biệt. Đó là một đêm trăng sáng về thu, đất trời vằng vặc, ta vừa qua ngọn Nhất
Sơn thì nghe đói lắm, ráng đi tới ngọn Nhị Sơn thì bụng cồn cào không bước được
nữa. May thay ta nghe có tiếng chuông khua trong núi và ta lần mò đi đến thì gặp
được một nếp chùa ẩn trong cây lá. Ta gõ cửa. Một vị sư già ra mở cửa. Ta nói
rõ hoàn cảnh đói khổ của ta và nhà sư khép cánh cửa lại, bảo là liên tiếp nhiều
năm trong hạt mất mùa, không còn vật thực để mà nuôi kẻ lở đường. Ta tức lắm, bảo
rằng :
- Thế thì nhà ngươi sống bằng
thứ gì ?
Vị sư bảo :
- Cố nhiên là ta phải sống bằng
những thứ gì con người có thể ăn được. Nhưng ta còn phải giữ chùa, thờ Phật.
Ta rất quí trọng những kẻ tu
hành, nhưng lúc quá đói lại nghe những lời nhẫn tâm như vậy ta không sao nén
lòng giận, quát lên :
- Thế lòng thương người mà đấng
Chí Tôn dạy bảo ngươi để ở đâu ?
Gã kia không nói rút đao
vung lên thì nhanh tay ta đã rút gươm chém kẻ ác tăng đã dám xâm chiếm cửa chùa
để mà mưu điều vị kỷ, rồi ta vơ vét những gì có thể ăn được còn giấu trong chùa
để gói mang đi. Ta qua xong ngọn Tam Sơn thì dưới ánh trăng gặp một xác người.
May thay trên ngực người ấy vẫn còn hơi ấm, ta cứu sống xong thì bỗng sửng sốt
mà nhận ra rằng đó là người bạn cũ của ta, anh chàng Thiên Hộ. Thiên Hộ chết
đói giữa đường sau khi đã gõ cửa chùa một cách tuyệt vọng. Ta cho Thiên Hộ ăn uống
xong xuôi và bảo cho anh ta biết rằng chính ta là kẻ đã giết ác tăng để mà cướp
lấy đồ ăn thì Thiên Hộ có ý không bằng lòng. Thiên Hộ buồn rầu kể cho ta nghe
cuộc đời của anh ta sau bao nhiêu năm xa cách. Thiên Hộ làm đủ nghề, học tập
khá nhiều kinh nghiệm, từng trải cũng lắm gian lao, nghiên cứu bao nhiêu kinh
sách thánh hiền nhưng suốt cuộc đời vẫn không sống được an thân vì cứ thực hành
điều phải, lẽ thiện nên bị hãm hại khốn đốn, phải trốn vào Thập Sơn ẩn náu qua
ngày.
Hai kẻ mang hai lý tưởng
khác nhau và cứ tưởng mình thắng thế bây giờ gặp nhau trong cái hoàn cảnh thất
bại, túng đói, thật là hết sức thảm thương. Nhưng đời ta quen sử dụng sức lực,
lưỡi gươm ta không lấy cảnh éo le làm điều phiền muộn, trái lại còn xem đó như
là niềm vui được dịp thử thách. Thiên Hộ thì hay suy nghĩ xa xôi, băn khoăn nhiều
nỗi, nên dễ sinh lòng hoài nghi yếm thế.
Sau đêm trăng ấy, chúng ta
dìu nhau vào mạn Thập Sơn. Ở đây chúng ta đã sống những ngày gian khổ nhưng hết
sức tự do. Ta thâu thập thủ hạ, kết nạp những người tài giỏi cùng với Thiên Hộ
lập hội Thập Sơn. Anh hào mỗi ngày một đông, thanh thế càng tăng. Chúng ta kéo
nhau đánh phá nhiều nơi, triệt hạ được những kẻ thù ngày xưa. Thằng Hạng Lữ tàn
bạo đã từng hãm hại Thiên Hộ, xua đuổi Thiên Hộ vào bước đường cùng bị ta bêu đầu
giữa chợ. Ta muốn lấy đốt xương sống của nó tạc cho Thiên Hộ một chiếc ống điếu
nhưng Thiên Hộ nhất định từ chối, cho rằng cái hình ảnh quen thuộc cần giữ phải
là hình ảnh của lòng yêu thương, của sự đùm bọc. Cây gỗ thạch đàn mà ta tạc cái
ống điếu kỷ niệm là cây gỗ ở bên đường, trong đêm trăng sáng, nơi ta đã cứu
Thiên Hộ, sau khi giết kẻ trộm cướp xâm chiếm chùa chiền.
Cuộc đời chúng ta kéo dài
nhiều năm như thế cho đến lúc bị triều đình tấn công, lực lượng tan vỡ. Thiên Hộ
và ta phải rời Thập Sơn mà đi. Bọn ta cùng nhận thấy rằng cứ đem vố nghệ, tài
năng mà phục vụ cho những mối tư thù nhỏ nhen thì không bao giờ giải quyết được
gì xứng đáng, nếu không nói là chỉ gây thêm oán thù mới một cách vô ích. Vả lại
hùng cứ ở nơi núi cao rừng thẳm chỉ là xa lánh mọi người, cuộc sống biệt lập ra
ngoài xã hội chỉ thỏa mãn tâm sự riêng tư mà không đem lại yên vui lâu dài cho
tâm hồn được. Thiên Hộ sau đó lại càng bi quan và không còn tin tưởng gì nữa.
Thiên Hộ cho rằng trong cuộc đời mà sức mạnh không thuộc về lẽ phải, chỉ là do
kẻ nắm quyền chủ định thì không mong gì làm được điều tốt, điều thiện. Ta không
chia sẻ ý kiến ấy. Kể ra ta chẳng hơn gì Thiên Hộ, và ta lại phải thất bại liên
tiếp trong đời, nhưng ta tin rằng tinh thần chiến đấu mà còn thì con người vẫn
đáng sống. Sau đó bọn ta chia tay. mỗi người một ngả. Thiên Hộ thì về Dương
Châu sống âm thầm, khuất lấp bên cạnh những người nghèo khổ, tự mình xóa bỏ với
mình dĩ vãng phiêu lưu đã cũ, còn ta thì về Hồi Giang mở quán rượu này để thỉnh
thoảng mượn rượu và sự giao tiếp mà nhắc nhở rằng mình hãy còn sống ở trên đời.
Cụ Thiết Hào bỗng thở dài rồi
nói :
- Kể ra cuộc đời không phải
là không có những phút thật buồn nản nhưng cuối cùng rồi cũng phải vượt qua cái
buồn nản ấy để sống bởi vì con người còn có trách nhiệm với mình và với đồng loại.
Và sau một lúc trầm ngâm, cụ
Thiết Hào nói :
- Đưa cháu đến đây gặp ta, ý
hẳn Thiên Hộ đã thay đổi rồi. Ông ta chắc phải nhận thấy ở đời chỉ có đạo đức
nơi lòng chưa đủ, còn phải có được khả năng thực hiện cái đạo đức ấy mới là hợp
lẽ.
Từ đấy Khải Hùng bắt đầu luyện
tập võ nghệ. Phương pháp mà cụ Thiết Hào truyền dạy cho Khải Hùng khác hẳn với
phương pháp cho Yến Nhi. Mỗi sáng Khải Hùng phải mang những bao cát nhỏ chạy
nhiều vòng trên sân và nhảy trên những mô đất sắp rải rác. Cứ thế bao cát tăng
dần và mô đất cũng đắp cao dần. Mỗi chiều cụ bắt Khải Hùng tập cách nhào lộn
nhiều lần để cho cơ thể hoàn toàn mềm dẻo. Được nửa năm, Khải Hùng mới học các
môn vố nghệ, lúc ấy Khải Hùng đã mang được những bao cát lớn nặng bằng hai người
để vượt qua những chướng ngại khá cao. Theo Thiết Hào thì trong vòng ba năm nữa
Khải Hùng có thể phi thân lên nóc nhà một cách dễ dàng nếu sự tập luyện không bị
gián đoạn. Tất cả các cử động về từng môn được cụ Thiết Hào dạy bảo hết sức kỹ
lưỡng và bất cứ một thế võ nào cụ cũng theo dõi sát sao, hướng dẫn chu đáo, kỳ
cho đạt đến cái mức vô cùng tinh nhuệ. Trong các môn võ nghệ, quyền thuật, Khải
Hùng tỏ ra có năng khiếu về môn độc kiếm bởi vì cánh tay từ bé đã quen sử dụng
mái chèo.
Sang năm thứ hai thì trong mỗi
ngày tập luyện vào trưa, tối và sáng, cụ Thiết Hào buộc Khải Hùng phải định tâm
để tập trung thần lực.
Qua năm thứ ba thì Khải Hùng
đã tiến bộ nhiều. Một hôm đang trông cửa hàng, bỗng có người lạ mặt đi vào, xăm
xăm tiến tới giữa nhà kéo ghế ngồi xuống, đập bàn quát lớn :
- Rượu đâu ?
Khải Hùng hết sức khó chịu,
cố dằn lòng, rót rượu đem lại. Gã kia vừa chạm môi vào chén đã vội kêu lên :
- Mày dám gọi cái thứ nước
hôi tanh này là rượu kia à ?
Và gã cầm ngay chén rượu ném
thẳng vào mặt Khải Hùng. Nhanh như chớp Khải Hùng đưa tay bắt lấy chén rượu và
ném trả lại. Người khách né mình tránh khỏi và cất tiếng cả cười. Lập tức Khải
Hùng nhảy đến, quát to :
- Nhà ngươi không được vô lễ.
Gã kia mỉm cười tỏ vẻ khinh
bỉ trả lời :
- Chính mày mới là vô lễ
nhãi con.
Rồi gã nhấn mạnh từng tiếng
nói tiếp :
- Mày có ba lỗi mà không tự
biết đó thôi. Một là mày đem nước lã hôi tanh mà dám gọi là rượu quí. Hai là
mày dám ném chén vào mặt khách hàng. Ba là không biết kính nể, nhường nhịn một
bậc tuổi tác vào hạng cha chú của mình.
Khải Hùng cả thẹn, toan liều
một trận sống chết với người khách lạ, nhưng vừa tiến đến đã nghe cụ Thiết Hào
nạt lớn :
- Dừng lại !
Quay lại, Khải Hùng thấy cụ
Thiết Hào nghiêm sắc mặt, đứng ở lối thông ra ngã sau, có vẻ bất bình bèn vòng
tay bước đến, cúi đầu tạ lỗi. Cụ Thiết Hào nói :
- Mày thực là nông nổi, vụng
về. Luyện tập cho mày ba năm mà tưởng như mới rèn luyện ba ngày không bằng. Hãy
xin lỗi khách đi nào.
Khải Hùng quay lại thì không
thấy người khách ấy đâu cả.
Đang còn ngơ ngác, trong
lòng bối rối thì cụ Thiết Hào đã lại nơi vò rượu lúc nãy rót ra trong chén, đưa
vào tận mũi Khải Hùng, bảo rằng :
- Hãy nếm xem nào ? Có phải
là rượu đó chăng ?
Khải Hùng bây giờ mới rõ
không phải là rượu, hết sức phân vân, lúng túng.
Cụ Thiết Hào nói tiếp :
- Đây là ta mượn người quen
thử con đấy thôi, một sự thử thách tầm thường đơn giản không so sánh kịp với những
thử thách ngoài đời. Tuy vậy bấy nhiêu cũng đã tỏ rằng con có cái tư tưởng nguy
hại là ỷ võ nghệ của mình. Người vố sĩ chân chính là kẻ đến bước cuối cùng mới
cậy võ thuật. Trái lại, con thuộc vào những kẻ lợi dụng võ thuật ngay từ bước đầu.
Thử hỏi nếu như võ thuật thất bại, thì con còn lại những gì ? Chắc chắn là còn
sự chết mà thôi. Hầu hết những kẻ chưa đạt đến cái cao đạo của nghề võ đều xem
nó như là lợi thế duy nhất của mình và vội vàng sử dụng, không chịu thấy rằng
đó là sức phản ứng hoàn toàn thú tính không hợp với trình độ con người. Càng giỏi
võ càng không nên cậy dựa vào sự dụng võ, mà nên chứng tỏ tinh thần lớn lao của
mình. Chính vì có tin vào sức mình mới nuôi dưỡng được cái sắc thái trầm hùng bền
vững.
Khải Hùng nghe nói, cúi đầu
xấu hổ. Cụ Thiết Hào lại nói :
- Chỉ còn ít tháng nữa là đến
mùa trăng sáng về thu. Cuộc đả lôi đài ta định từ ba năm trước phải hoãn lại vì
một lý do chưa tiện nói ra, ngày nay có dịp tổ chức được rồi. Con phải luyện tập
công phu để có dịp thử sức với nhiều người bản lĩnh.
Sau câu chuyện xảy ra với
người khách lạ, Khải Hùng lấy làm lo nghĩ rất nhiều. Nhận thấy mình vẫn còn những
ý tự phụ, ỷ tài một cách nông nổi, Khải Hùng quyết tâm sửa đổi. Lại nghe cuộc đả
lôi đài sắp tổ chức, Khải Hùng lại càng cố gắng ngày đêm rèn luyện hết lòng. Một
hôm, nằm nghĩ lại những điều nghe được mơ hồ trong đêm giữa rừng, khi đang chèo
thuyền về bến Hồi Giang, cuộc đả lôi đài nghe nói từ ba năm trước, và những người
tướng mạo hung dữ bàn về thế đánh lợi hại, về tranh đoạt uy thế của Trịnh Thiết
Hào, về cây gậy sắt đã giết người, khiến cho Khải Hùng băn khoăn suy nghĩ,
không sao ngủ được. Đang nằm thao thức, bỗng nghe có tiếng chân người đi nhẹ
bên nhà. Khải Hùng định thần, lắng tai để dò động tỉnh. Nhờ lối luyện tập nhập
thần công phu nên Khải Hùng nghe được những tiếng động rất xa và rất nhỏ. Một
lát tiếng chân người nhẹ nhàng tiến về phía sau rồi vòng ra nơi phòng ngủ của
Trịnh Thiết Hào. Khải Hùng ngồi dậy, vén nhẹ tấm rèm che cửa, nhìn theo thì thấy
một bóng người to lớn đang thu hình lại, ép tai vào vách như đang nghe ngóng điều
gì. Bỗng nhiên một chuỗi cười nổi lên sang sảng giữa đêm khuya khiến kẻ rình mò
vội vàng đứng dậy, rút gươm thủ thế. Tiếng cười lại vang to hơn và Khải Hùng
ngước nhìn thấy Trịnh Thiết Hào đang ngồi chồm hổm ở trên nóc nhà, khoanh tay
trước gối, ngửa mặt mà cười dưới bóng trăng khuya.
Thiết Hào bỗng dừng tiếng cười,
cất giọng đĩnh đạc :
- Ta chờ mày lâu lắm rồi,
không ngờ chúng mày lại đến vào lúc nửa đêm khiến ta không sao ngủ cho yên giấc.
Tiếc là công phu luyện tập của mày còn thiếu xót quá cho nên ta đã nghe bước
chân của mày từ quán Đại Hưng ở ngoài đầu bến. Về bảo với gã chủ mày là từ lâu
ta vẫn có ý đợi chờ nó đến nhưng nên tìm đến vào lúc ban ngày cho khỏi quấy rầy
giấc ngủ kẻ khác.
Gã to lớn kia như không nén
được sự căm tức, nhón chân nhảy lên mái nhà, lần này trông có vẻ nhẹ nhàng như
chiếc lá rơi. Chống hai tay vào sườn, gã đứng trước mặt Thiết Hào, nói bằng một
giọng khiêu khích :
- Giữa anh của ta và mày có
một mối thù không đội trời chung, thế nào rồi cũng sống mái một trận. Nhưng ta
đến đây không phải là để hành thích mày đâu vì ta không quen làm điều ám muội
bao giờ. Nhân đi qua Hồi Giang ta ghé thăm mày giây lát rồi sẽ có ngày tái ngộ.
Khi nào gặp lại hẳn hòi tao sẽ giao trả cho ngươi chiếc gậy dính máu từ mười
năm trước.
Nói xong người ấy quay lưng
lại, ung dung nhảy xuống sân nhẹ nhàng như trước và biến mất sau những căn phố
đen dày trong đêm. Khải Hùng nhìn thấy Trịnh Thiết Hào, sau khi người kia đi rồi,
có vẻ thẩn thờ và bây giờ đứng trước sân, cúi đầu suy nghĩ dáng điệu suy tư buồn
bã. Thiết Hào đứng như thế rất lâu rồi mới vào nhà khiến Khải Hùng băn khoăn tự
hỏi vì sao trước kia Thiết Hào có vẻ hiên ngang mà sau câu nói của người lạ mặt
thì Thiết Hào đổi thay thái độ vô cùng đột ngột. Đầu óc còn thơ trẻ của Khải
Hùng bắt đầu có mối nghi vấn, nó tò mò muốn tìm biết sự thật.
Qua những ngày sau, Thiết
Hào có vẻ suy nghĩ hơn trước, cặp mắt vành môi thoáng những nét buồn. Trước kia
đối với khách vào uống rượu, Thiết Hào vẫn thường nói chuyện vui vẻ, thì nay ngồi
im nghĩ ngợi, chỉ ai hỏi mới khẽ nhếch mép, nghiêng đầu.
Một buổi sáng, giữa buổi
đang mua bán ra vào tấp nập thì có một gã ăn xin từ ngoài bước vào. Gã ăn mặc
rách rưới, bẩn thỉu, áo quần có vẻ mang nhiều gió bụi đường trường, tay trái chống
gậy. Gã đội một cái nón lá cũ nát, vành che sụp xuống dưới mặt và vẫn để y như
thế mà ngồi trong quán nên không ai trông rõ là trẻ hay già. Gã ngồi uống khá
lâu một mình một chiếc bàn con và gần như không để ý đến ai nữa khác. Cứ thế gã
uống từng chén nhỏ từ sáng cho đến trưa rồi mới từ từ đứng dậy, lần tay trong bọc,
lấy một nén bạc để trên mặt bàn, gọi bảo Khải Hùng thối tiền. Khải Hùng bước đến,
người ăn mày nhìn chăm chăm vào mặt nó một lúc lâu rồi giữ chặt đồng bạc trong
tay không chịu bỏ ra. Một lát thấy Khải Hùng vẫn chắp tay đứng đợi có vẻ cung
kính, gã bỏ đồng bạc trên bàn rồi lấy ngón tay nhận xuống. Đồng bạc từ từ lún
sâu vào gỗ mỗi lúc mỗi sâu thêm và cuối cùng rơi tọt xuống dưới nền nhà.
Khi người ăn mày đi rồi, Khải
Hùng vẫn chưa hết ngạc nhiên, đứng sững nhìn theo rất lâu, trong lòng lấy làm
khâm phục. Lượm nén bạc đem vào cho cụ Thiết Hào, Khải Hùng trình bày trở lại đầu
đuôi thì cụ Thiết Hào ra dáng suy nghĩ rồi hỏi :
- Gã ấy đi đã lâu chưa ?
Khải Hùng đáp :
- Thưa chắc đã đi xa rồi.
Cụ Thiết Hào nói :
- Thế nào rồi gã cũng sẽ trở
lại. Nhưng con đừng quá ngạc nhiên như thế. Phương pháp vận dụng nội công, phát
dương thần lực tuy rất công phu nhưng vốn dễ tập. Ngày xưa khi chưa học đến môn
này ta cũng nể sợ như con, nhưng khi học xong mới biết không phải là điều rất
khó. Ban đầu ta nghe kể chuyện nàng Lý Hồng Hoa đang ngồi đọc sách, bỗng có hai
gã ăn mày vốn là hai tay đạo tặc cải trang tìm đến nhà nàng cốt để dò la. Nàng
bèn đóng cửa lại và ném vung tiền xuyên qua tấm cửa lim dày rồi bảo : "Cho
chúng mày đấy", khiến cho hai tên đạo tặc vội vã kiếm đường lẩn trốn, biết
gặp phải tay không vừa. Nghe câu chuyện ấy ta rất say mê luyện tập, nhưng sau
này ta nhận thấy rằng tùy mỗi sinh hoạt và cá tính con người mà phải luyện môn
võ phù hợp thì mới mong đạt đến tuyệt đỉnh được. Môn vận dụng nội công, phát
dương thần lực là ngón sở trường của phe đạo sĩ, không phải của những hạng người
có một cuộc sống bất thường.
Khải Hùng hỏi :
- Vậy gặp tay có bản lĩnh
như thế, đối phó thế nào ?
Cụ Thiết Hào cười đáp :
- Phải tùy đấy chứ. Nhưng
nên nhớ rằng những hạng người luyện tập như thế thường kém nhanh nhẹn, kém đường
quyền biến rất nhiều, chưa phải mười phần đáng sợ.
Hôm sau đang ngồi trong nhà,
Khải Hùng bỗng nghe có tiếng léo xéo bên ngoài, bèn chạy ra thì thấy nhiều người
xúm lại ở một ngôi quán trước mặt. Khải Hùng đến xem thì thấy người ăn xin hôm
qua đang ngồi giữa quán, vẻ mặt bình tĩnh, trong khi chủ quán đang trợn mắt cố
sức xô đẩy người ấy.
Chủ quán vừa thở, vừa nói :
- Nào, mày có đi khỏi đây
không ?
Người ăn xin vẫn ngồi yên
không nhúc nhích, ôn tồn trả lời :
- Ta nhất định chẳng đi đâu
cả.
Chủ quán gào lên :
- Thế ngươi nhất định ngồi
lì đây sao ?
Người kia cười lạt đáp :
- Quán ngươi đâu phải là
ngôi chùa cứu độ để ta phải lưu luyến ngồi lì, nhưng hiện giờ ta còn đói bụng,
ta cần phải ăn, nếu ngươi chưa dọn các thứ lên đây thì ta vẫn phải ngồi chờ.
Chủ quán nói :
- Hàng quán ở đây là nơi ăn
uống của hạng người sang trọng mà nhà ngươi thì rách rưới, bẩn thỉu, ta không
tiếp đãi được. Ta nhất quyết không dọn.
Người ăn mày nói :
- Vậy thì ta nhất định ngồi
chờ.
Chủ quán cáu tiết xông vào nắm
tay người ăn mày định kéo ra khỏi quán nhưng gã vẫn trơ trơ như đóng đinh vào
ghế vậy. Lão chủ giận quá, kêu lên :
- Gia nhân đâu ! Phụ lực với
ta tống cổ tên này ra khỏi cửa hàng xem nào !
Bốn năm gia nhân lực lưỡng
chạy đến, a vào, kẻ nắm tay, người nắm chân, kẻ xô lưng, người đẩy ghế nhưng gã
ăn mày vẫn ngồi vững như một tảng đá khổng lồ. Ai nấy đều trợn mắt, hơi thở phì
phào nhưng vẫn không khiến cho gã nhúc nhích.
Chủ quán vừa nói vừa lau mồ
hôi nhỏ giọt :
- Quái, tên lưu đãng này bị
trời trồng ở đây rồi chắc ?
Bấy giờ gia nhân thấy thế
kéo đến càng đông hè hụi cố sức xô đẩy nhưng vẫn không lay chuyển được gã ăn
mày. Quang cảnh trông thực là kỳ lạ và buồn cười. Một lát, bọn gia nhân thẩy đều
kinh ngạc và nhìn trân trân vào kẻ ăn mày không dám đẩy nữa. Chủ quán nói :
- Thế là cả lũ chúng mày chịu
thua một tên bị gậy rách rưới gầy gò này sao ? Xông vào !
Mọi người vẫn cứ đứng yên,
đưa mắt nhìn nhau rồi nhìn kẻ ăn mày. Gã vẫn ngồi tự nhiên, nét mặt không chút
đổi thay như đang tư lự việc gì.
Chủ quán lại thét lên :
- Thực là một lũ ăn hại !
Xông vào ! Xông vào !
Nhưng chẳng một ai nhúc
nhích. Giữa lúc ấy có tiếng xô mạnh chiếc ghế ở cuối phòng và một giọng oang
oang cất lên :
- Hãy đứng cả lên, xem nào !
Mọi người quay lại và thấy một
người to lớn ăn mặc rất sang, áo trắng dạ vàng thêu hoa xanh, thắt lưng bằng
nhiễu hồng, đầu chiết khăn gấm màu hồ thủy, lưng đeo một thanh kiếm dài vỏ bạc
sáng choang. Người này ung dung tiến đến đám đông, vẻ mặt hồng hào chất rượu,
đưa tay vẹt cả lớp người qua hai bên rồi tới trước mặt gã ăn xin, chống tay vào
sườn, nhíu mắt, xệch môi, gã gật chiếc đầu nói bằng một giọng khinh bỉ :
- Tên hành khất này định giở
trò khốn nạn gì đây ?
Người ăn mày liếc nhìn gã to
lớn rồi quay mặt sang nơi khác.
Gã kia tức giận, hét lên :
- Mày nhất định không nói đấy
chứ ?
Và tiếp liền theo câu nói gã
tống một thoi vào mặt người ăn mày. Nhưng bàn tay gã như chạm phải sắt đá, co
rút trở lại vội vàng và gã không nén được tiếng kêu kinh hoàng. Lập tức, gã lùi
lại, rút kiếm ra khỏi vỏ. Người ăn mày bây giờ mới ngước nhìn gã và cười lạt, bảo
rằng :
- Bây giờ đến lượt ta nhắc lại
câu hỏi của mày vừa rồi : "Thế mày định giở trò khốn nạn gì đây ?"
Gã to lớn lăm lăm thanh kiếm
trong tay, nói bằng một giọng hằn học :
- Mày đã đem cái dơ bẩn của
mày phá rối nơi đây rồi lại giở trò tà thuật để khoe bản lĩnh của mình. Ta phải
trừng trị mày để làm gương cho kẻ khác.
Gã ăn mày bỗng cất tiếng cười
rồi đáp bằng một giọng khinh bạc :
- Khá khen cho ngươi đã có tấm
lòng hào hiệp những muốn răn dạy người đời. Nhưng mà rất tiếc nhà ngươi cũng
quá nôn nóng cho nên nói điều nghĩa khí không nhằm phải chỗ. Ta chỉ là một kẻ
nghèo nàn thì làm sao có được quần áo sang trọng như ngươí mà bảo đừng mang những
miếng vải bố rách rưới dơ bẩn này được ? Con người ta ăn mặc phải tùy theo điều
kiện của mình, không thể vì muốn tỏ ra sang trọng mà ta phải đi giết người, cướp
của để được cao sang ! Còn quán này lập ra là để buôn bán với mọi kẻ có tiền.
Ta đây có tiền, ta không ăn chịu, lẽ nào lại không muốn bán cho ta ? Hơn nữa,
ai ngồi bàn nấy, ta dù rách rưới tanh hôi nhưng ta đâu có đem cái dơ bẩn của ta
mà dí vào mắt các ngươi ? Ta bảo cho nhà ngươi biết điều này : ta chẳng phá
phách một ai, cũng chẳng giở trò tà thuật. Ta chỉ ngồi yên đợi thức ăn có thế
mà thôi, khôn hồn cho những hạng nào vô lễ xâm phạm đến ta ! Lần thứ nhất ta
còn tha thứ, nhưng lần thứ hai ta quyết không dung.
Lời nói rắn rỏi của gã ăn
mày vang lên trong căn phòng rộng khiến cho mọi người im lặng. Khi người ấy dứt
câu ai nấy đều cảm thấy cái vô lý của người chủ quán cũng như của gã to lớn.
Nhưng gã này nhất định không nhận thấy cái vô lý của mình, cho nên sấn tới và
vung kiếm lên. Nhưng... xoảng ! một cái bát sứ từ nơi quầy hàng ném lại rồi giọng
nói của Khải Hùng cất lên :
- Đồ hèn nhát ! Gây sự với một
kẻ gầy ốm hơn mình tay không khí giới mà lại vung kiếm múa dao không thấy làm
nhục sao ?
Gã to lớn kinh hoàng nhưng
cũng quay lại trợn mắt hỏi :
- Đứa nào đấy ? Có giỏi thì
ra đây ?
Lập tức một cái bát thứ hai
ném trúng mặt gã, máu mũi tuôn ra lênh láng. Người ăn mày ung dung đứng dậy,
nói lớn :
- Thôi ta không muốn làm phiền
đến nhiều người, để ta đi cho khuất mắt các ngươi. Nhưng chủ quán nên nhớ cho
điều này : "Từ đây về sau đừng có giở giọng khinh kẻ rách rưới mà có phen
tính mạng khó toàn".
Rồi người ăn mày từ từ đi
ra. Mọi người dàn cả hai bên nhường bước. Gã cúi đầu, bước đi lặng lẽ như không
mảy may chú ý chung quanh.
Khải Hùng lẽo đẽo theo sau
và thấy gã ra khỏi xóm tiến vào một vùng đá sỏi hoang vu. Khải Hùng bèn cố đi
theo xem gã về đâu cho biết. Đi được một đỗi thì thấy mất hút bóng gã, vội vàng
cố sức chạy theo lại thấy gã đang lững thững trước mặt. Cứ thế một lát thì gã lại
biến mất và Khải Hùng lại phải bương bả theo gót hết sức nhọc nhằn. Trông dáng
gã đi có vẻ thong thả tự nhiên nhưng Khải Hùng chạy đến bao nhiêu cũng chẳng tới
gần cho được. Cuối cùng, khi đã thở dốc nhọc mệt, Khải Hùng đã toan bỏ cuộc trở
về, thì thấy người ăn mày dừng lại trước một tòa cổ miếu hoang phế nằm dưới một
gốc si già. Người ăn mày đứng trầm ngâm một lát, cúi nhìn xuống đất. Khải Hùng
chạy đến núp sau một bụi gai lớn để tâm theo dõi thì thấy có manh chiếu nhỏ và
một bọc gạo đổ tung ở trên nền gạch long lở, rêu phong. Ngước nhìn vào trong cửa
miếu đóng kỹ có tiếng ngáy vang như sấm đưa ra.
Người ăn mày thong thả cúi
nhặt một viên sỏi nhỏ, dang tay ném vào trong. Viên sỏi lướt vào như một phi đạn
xoi lủng cánh cửa và lọt vào miếu gây nên những tiếng loảng xoảng bên trong như
sự đổ vỡ của nhiều chén bát. Tiếng ngáy bỗng dứt. Giây lát cánh cửa xịch mở, một
người hiện ra, râu ria xồm xoàm, vẻ mặt như còn ngái ngủ nói bằng một giọng
khàn khàn :
- Định phá giấc ngủ của ta
phải không ?
Người ăn mày nói :
- Chiếm chỗ của người, rồi lại
ném cả đồ đạc ra ngoài như thế này đây, lại còn lên giọng trịch thượng, vậy là
thế nào ?
Người kia nhếch môi như để mỉm
cười, máy động chòm râu rậm rạp rồi thong thả đáp :
- Đây là chỗ của thần thánh,
đâu phải là chỗ của ngươi ! Hơn nữa, ta không muốn làm người giữ của cho bất cứ
kẻ nào, chẳng lẽ ta phải ngồi ôm bọc gạo và manh chiếu rách của ngươi mà ngủ
hay sao ? Lại thêm từ xưa đến nay ta vốn quý trọng giấc ngủ của mình, sợ ngươi
trở về lục lọi đồ đạc rồi quấy rầy, cho nên ta ném ra ngoài là có ý tốt cho ta
và cho ngươi, ngươi còn muốn khiếu nại điều gì ?
Người ăn mày ôn tồn nói :
- Ta nghe đất Hồi Giang này
là đất anh hùng, thế mà cái phận ăn mày của ta vào quán thì người ta không cho
ngồi, vào miếu thì người ta đoạt chỗ ngủ, biết làm thế nào ? Nhưng thôi, nhà
ngươi nằm ngủ xét ra có lẽ nhiều rồi, nhường lại cho ta một buổi.
Gã râu xồm cười khẩy một tiếng
rồi đáp :
- Ta không phải là người ở
cái đất này. Nghe nói Hồi Giang có đả lôi đài, bốn phương kéo đến, ta cũng muốn
một nơi trọ để chờ, nhưng tiếc không có, phải mượn cái miếu này thôi.
Người ăn mày nói :
- Ngươi không biết rằng phàm
khách giang hồ mã thượng đều tôn trọng quyền ưu tiên đấy sao ? Ta rất buồn lòng
phải nhắc nhở ngươi những điều vụn vặt như thế.
Gã râu xồm đáp :
- Quyền ưu tiên là quyền của
kẻ mạnh chứ không phải của người đến trước.
Người ăn mày nói :
- Thế nghĩa ngươi là kẻ mạnh,
phải không ?
Gã râu xồm lạnh lùng trả lời
:
- Chắc thế.
Lập tức người ăn mày ném chiếc
nón lá tả tơi xuống đất để lộ một khuôn mặt gầy gò, hốc hác, ngẩng đầu lên, nói
:
- Ta vì đói bụng mà mệt và
buồn ngủ lắm rồi, nhưng cũng cố gắng trả lời cho ngươi thấy rằng điều làm chắc
của người chưa phải là điều làm chắc của ta.
Gã râu xồm rời khung cửa,
khoan thai bước ra, cúi xuống bệ gạch ven thềm, dùng hai ngón tay rút từ trong
khối dày đặc một viên gạch lớn, dễ dàng như người rút một chiếc đũa trong ống.
Đoạn tiến tới gần người ăn mày gã ta đưa hai bàn tay bóp vụn viên gạch như người
vò lấy chất bột ủ mềm. Rồi như để thách thức gã ném cả mớ bột gạch vào mặt đối
thủ. Nhưng người ăn mày gầy gò vẫn đứng yên, chuyển vận luồng hơi trong ngực
lép kẹp thổi phù một cái nghe như là ngọn gió lốc ào qua. Tất cả đám bột gạch bị
tạt trở lại trùm hết người gã râu xồm khiến gã loạng choạng ngã lùi, khắp người
phủ đầy một màu nâu đỏ. Sau khi trấn tỉnh lại được, gã râu xồm hung hăng nhảy đến
phóng mạnh một đá quật ngang vào mình gã ăn mày nhưng người này nhẹ nhàng lách
khỏi rồi lanh như chớp phóng trả một đá giữa ngực đối thủ. Gã râu xồm chỉ kịp
kêu lên một tiếng rồi nhào ngửa trên nền gạch.
Người ăn mày cười lạt nói :
- Thế thì kẻ mạnh hơn sẽ được
ngủ trong miếu vậy.
Rồi cúi xuống lượm manh chiếu
và hốt gạo vào bọc. Đi được ít bước, thì người ăn mày bỗng quay lại phía bụi
cây, chỗ núp của Khải Hùng, truyền bảo :
- Thằng nhỏ về đi để cho ta
ngủ yên lành. Nếu không nghĩ cái tinh thần sốt sắng của mày đã ném vỡ hai cái
bát của chủ quán thì có lẽ ta trừng phạt từ lâu cái sự tò mò tọc mạch của mày.
Còn gã râu xồm thì hãy nằm đấy, bao giờ ngủ xong ta sẽ nhường miếu lại cho.
Nói xong, người ấy lững thững
vào miếu, đóng ập cửa lại.
Chương 05
Cả miền Hồi Giang bỗng dưng
rộn rịp khác thường, ghe thuyền kéo về chật bến và khắp hàng quán nơi nào cũng
đều đông nghẹt những người. Một số thanh niên ở những miền gần kéo đến và các
khách giang hồ mã thượng từ bốn phương cũng nô nức tìm về.
Đài được dựng trên một khoảng
đất khá rộng. Trong suốt thời gian bố trí để xây dựng đài, cụ Trịnh Thiết Hào
luôn luôn có mặt tại chỗ, đốc thúc mọi người làm việc không ngừng.
Đúng ngày rằm Trung Thu thì
võ đài được dựng hoàn thành. Tất cả công trình kiến trúc ấy rất là tốn kém khiến
Khải Hùng tự hỏi cụ Thiết Hào lấy đâu tiền bạc để cung cấp sở phí một cách dễ
dàng như vậy. Vào lúc nửa chiều ngày rằm thì quang cảnh chung quanh võ đài có
phần hết sức náo nhiệt. Khi ánh trăng rằm sáng tỏa ở trên nền trời trong vắt
thì những ngọn đèn treo từ bến đến đài cũng được thắp sáng tưng bừng. Cuộc đả
lôi đài định từ ba năm trước bây giờ mới thực hiện được đã gây náo nức trong
đông đảo quần chúng khiến cho không khí chờ đợi càng thêm sôi nổi, nhiệt cuồng.
Sau một hồi chiêng vang lên
thì cụ Trịnh Thiết Hào đã từ dưới phi thân lên đài cao, nhẹ nhàng như một cánh
bướm. Tất cả chung quanh đều im lìm tập trung chú ý vào cụ Trịnh Thiết Hào. Cụ
vận một bộ đồ chẽn bằng vải xanh lá cây, lưng thắt lụa bạch, đầu chít khăn đỏ,
dáng điệu đường đường khí phách gây một cảm giác kính nể ở khắp mọi người. Sau
khi đảo quanh cặp mắt một vòng như kiểm điểm lực lượng vây phủ lấy mình, cụ chấp
hai tay đưa lên cao, đảo quanh một vòng để thay thế lời chào mừng rồi cất tiếng
cười vang rền như sấm, dõng dạc tuyên bố :
- Đất Hồi Giang này từ bao
lâu nay được xem là đất dụng võ của khách anh hùng tứ xứ. Trung thành với tập tục
của hàng đao kiếm, chúng tôi những kẻ suốt đời đã theo đuổi võ thuật, tự thấy
có bổn phận phải tổ chức cuộc đả lôi đài rộng lớn vào một địa điểm thuận lợi
cho sự tập trung và sự biểu diễn tài năng. Thay mặt cho những kẻ quyền thuật ở
đất Hồ Giang tôi xin nhắc lại ý nghĩa của cuộc đả lôi đài này. Ý nghĩa của nó gồm
trong ba điểm sau đây. Một là tạo dịp để anh tài bốn phương thử sức tập luyện
công phu của rnình và học lấy những môn võ nghệ của người. Hai là gây cái không
khí sôi nổi, thân tình giữa những con người võ hiệp bốn phương trong khi đọ sức,
đua tài. Ba là chọn lấy những tay bản lĩnh xứng đáng gọi là tiêu biểu ở trong
môn phái của mình, đủ sức can thiệp vào những khó khăn, bất bình xảy ra giữa lớp
giang hồ mã thượng.
Cuộc đả lôi đài này đáng lẽ
phải được tổ chức từ ba năm trước nhưng vì nhiều lẽ cản trở cho nên đành hoãn lại
đến mãi năm nay. Những lẽ cản trở ấy là gì ? Một là tình hình bấn loạn nhiều
nơi khiến cho nhiều vị anh tài không thể trở về dự hội. Hai là đất Hồi Giang vốn
từng là đất dụng võ cho nên triều đình e ngại không chịu chấp thuận một sự tập
trung, sợ lại gây ra những cảnh náo động bất thường, quan quân khó lòng can thiệp.
Thiết Hào vừa nói đến đây
thì từ dưới đài có tiếng la ó vang dậy, tỏ nỗi bất bình, Thiết Hào chờ cho êm dịu
rồi mới nói tiếp :
- Nào xin mời khắp anh tài bốn
phương đấu sức, đua tài.
Dứt lời Thiết Hào nhẹ nhàng
nhảy xuống dưới đài.
Bỗng một người phi thân lên
đài. Nhìn bộ râu quai nón của gã, Khải Hùng trực nhớ như đã gặp gỡ lần nào
nhưng cố moi móc ở trong ký ức mà không tài nào biết được là ai. Người ấy quay
nhìn chung quanh với một vẻ mặt hết sức khiêu khích rồi vỗ ngực nói :
- Ta đây là Tiêu Diện Hổ,
người ở đất này, nhưng từ lâu chu du đây đó nên đã từng gặp lắm kẻ gian ngoan bản
lĩnh khác thường. Nhưng ta nhận thấy điều này : bất cứ kẻ gian ngoan nào cũng đều
không thể bì kịp với Trịnh Thiết Hào. Hôm nay, đến đây ta muốn trước là đấu sức
cùng y, rồi sau sẽ hỏi tội y. Thiết Hào nếu không sợ hãi gì ta thì hãy lên đây.
Nói xong, gã đảo cặp mắt trợn
trừng để nhìn tứ phía ra vẻ vô cùng căm hận. Nhưng Trịnh Thiết Hào đã nhảy lên
đài. Hết sức ôn tồn, thong thả, Thiết Hào cất tiếng :
- Đây là lần đầu tiên trong
đời, ta được nghe một kẻ mã thượng gọi ta là đứa gian ngoan. Ta không vội vàng
cải chính một lời vu cáo của người nông nổi nhưng ta muốn ngươi hãy nói ra đây,
trước biết bao người, những điều xấu xa của ta để cho thiên hạ phán đoán.
Tiêu Diện Hổ trả lời :
- Ta muốn nói chuyện với
ngươi bằng võ nghệ trước khi nói chuyện bằng lời.
Trịnh Thiết Hào đáp lại :
- Kể ra ta không tiếc gì một
chút hơi sức mà chẳng chịu cùng ngươi giao đấu thử tài. Song khốn nỗi, nếu ta lỡ
tay đánh ngã ngươi rồi thì miệng đời không khỏi chê ta là kẻ có tâm bất chính cố
ý triệt hạ một người đã muốn tố cáo tội ác của ta. Chi bằng ta gọi một đứa đồ đệ
của ta có lẽ vừa sức ngươi hơn.
Dứt lời, Thiết Hào cất tiếng
gọi lớn :
- Khải Hùng !
Tức thì Khải Hùng nhảy vọt
lên đài. Mọi người nhìn thấy Khải Hùng chỉ là một cậu bé con mười lăm, mười sáu
tuổi đầu thì có vẻ ngạc nhiên hết sức. Nhưng trông vẻ mặt rắn chắc, dáng điệu
bình tĩnh đường hoàng của Khải Hùng, ai nấy cũng đều có mối thiện cảm.
Tiêu Diệu Hồ gầm lên :
- Thiết Hào ! Nhà ngươi thật
là vô lễ, dám đem một đứa trẻ con chỉ biết lau chén lau bình ở trong quán rượu
của ngươi để múa rối trước mắt ta chăng ?
Thiết Hào cười đáp :
- Con quạ già nua hơn trăm
tuổi chưa chắc sánh kịp với con phượng hoàng mới sinh, tuổi tác chưa phải là
cái thước đo giá trị con người ! Còn bảo đứa trẻ này đây chỉ biết lau chén lau
bình là một lời nói quá sức vội vàng. Để xem ngoài việc hầu hạ ở trong quán rượu,
nó còn biết rõ lắm điều chẳng kém gì ngươi.
Tiêu Diện Hổ đáp lại :
- Ta không phải là kẻ đến
đây để kiếm chuyện hơn thua mà mong tranh chấp với phường con trẻ. Ta đến đây
là vì một mối hận ôm ấp lâu đời. Nay ngươi đã vì sợ sệt mà không dám cùng ta đấu
sức lại đem một đứa trẻ con để thay tội chết cho ngươi thì quả là điều chứng tỏ
ngươi chỉ là kẻ gian ngoan độc ác mà thôi. Nhưng để khỏi phụ lòng trông đợi của
ngươi và của tất cả bà con chúng ta chờ chực quanh đây ta sẽ cho tên đồ đệ của
ta nhận lời giao đấu.
Tiêu Diện Hổ nói xong quay
xuống võ đài gọi lớn :
- Đại Thường !
Một người trai trẻ, gầy gò, ốm
yếu nhưng trông nhanh nhẹn khác thường, nhảy vọt lên đài. Khải Hùng thoạt thấy
chợt nhớ chuyện ngày xưa, trong đêm đau ốm mệt nhọc giữa lúc trôi nổi trên
sông, Khải Hùng đã gặp đúng mấy người này. Chính Tiêu Diện Hổ đã cho viên thuốc
giải cảm và Đại Thường lấy gạo giúp cho Khải Hùng. Nghĩ lại bấy nhiêu điều ấy
Khải Hùng khôn xiết bàng hoàng và thế võ bí hiểm mà trong đêm hôm ấy Tiêu Diện
Hổ dạy cho đồ đệ của mình, Khải Hùng cũng vụt nhớ lại.
Đang còn băn khoăn trước những
ân nhân của mình thì Khải Hùng đã thấy Đại Thường tiến đến, chẳng nói, chẳng rằng
xông tới đánh thẳng vào mặt của mình. Nhanh như cắt Khải Hùng né mình tránh khỏi
rồi lùi lại nhưng Đại Thường cứ việc áp đảo, cố hạ cho ngã địch thủ ở trong
giây lát. Sự lanh lẹ, biến hóa của Khải Hùng khiến cho nhiều người mến phục
nhưng ai cũng ngạc nhiên khi thấy Khải Hùng không chịu đánh trả đòn nào. Cả những
thế sơ hở của đối phương, Khải Hùng cũng không lợi dụng để tấn công mà chỉ chuyển
vận trong thế chống đỡ. Nhiều người dậm chân, lắc đầu, tỏ ý bực dọc, có người
la lớn, kêu to biểu lộ phản đối, hằn học. Cuối cùng, Khải Hùng giơ tay nói lớn
:
- Hãy khoan !
Và lập tức nhảy ra ngoài. Đại
Thường dừng lại, tỏ ý ngơ ngác và mọi người, cả Trịnh Thiết Hào và Tiêu diện Hổ,
cũng đều tỏ vẻ ngạc nhiên.
Khải Hùng nói :
- Thực là khó lòng cho tôi hết
sức.
Tiêu Diện Hổ hỏi :
- Mày bảo thế nào là khó
lòng ? Đánh không đủ sức phải không ?
Khải Hùng đáp :
- Không phải tôi không đủ sức
đánh với các người. Nhưng các người là ân nhân của tôi, khó lòng cho tôi hết sức.
Đại Thường sấn sổ hỏi :
- Ai là ân nhân của mày ?
Tiêu Diện Hổ cũng cười to bảo
rằng :
- Bọn ta chưa hề mang những
danh hiệu hay ho như thế bao giờ. Ân nhân ! Ai là ân nhân của mày ?
Khải Hùng đáp :
- Có lẽ các người đã quên vì
câu chuyện này xảy ra cách đây đã được ba bốn năm rồi. Khi tôi lưu lạc giữa
sông với một đứa bé, các người đã giúp cho tôi thuốc men gạo muối trong lúc tôi
đang đau yếu, đói khổ. Không có các người thì tôi phải chết trên sông, đâu có
ngày nay ? Lẽ nào tôi nỡ đánh lại những người đã cứu sinh mạng của tôi ?
Tiêu Diện Hổ cười lớn rồi
nói :
- Ta không coi tới các vật
nhỏ mọn như là cái ơn cứu tử hoàn sanh thì mày không nên lấy nó làm điều ghi nhớ.
Bọn ta trong suốt cuộc đời luân lạc lấy của người khác cũng đã khá nhiều và đem
cho kẻ thiên hạ cũng khá nhiều. Tuy rằng có ân, có oán nhưng mà rốt cuộc cũng
là có vay có trả mà thôi, đừng có nói điều mang ân nhớ nghĩa mà toan trốn tránh
cuộc đấu sức này.
Nói xong lại cười ha hả ra vẻ
hết sức khinh miệt.
Khải Hùng nổi giận, đáp lại
:
- Vì ta không phải là hạng
vô lương cho nên phải nói những điều ân nghĩa, đâu phải là tuồng hèn nhát sợ điều
giao đấu với ngươi. Vả lại ta muốn thắng ngươi chính bằng tài năng thẳng thắn của
ta chứ không phải bằng một sự gian dối.
Khải Hùng tiếp lời :
- Tình cờ trong đêm lưu lạc
năm xưa khi ta đứng ở ngoài cửa các ngươi, thế võ bí truyền của ngươi dạy dỗ
cho kẻ đệ tử ta đã được biết cả rồi. Bây giờ nếy ta lợi dụng điều ấy thì ta thắng
cuộc dễ dàng nhưng ta không phải là hạng bất tài, vô đạo đến phải mưu chuyện
gian lường như vậy.
Tất cả mọi người nghe nói ai
nấy đều im lặng tỏ lòng mến phục Khải Hùng.
Bỗng cụ Thiết Hào nói :
- Ta không ngờ giữa kẻ đồ đệ
của ta cùng với các ngươi lại có những điều liên hệ thiêng liêng như vậy.
Tiêu Diện Hổ bèn nói :
- Đấy chẳng qua là sự tình cờ
nhỏ mọn xảy ra nhan nhản trong đời, có gì mà phải gọi là liên hệ thiêng liêng.
Đồ đệ của ngươi muốn tỏ ra người cao thượng là để tránh sự chiến đấu có thể đem
lại cho nó thất bại nhục nhã. Thôi, ta cũng chiều theo lòng nó mà bỏ qua đi một
cuộc đua tài vô ích nhưng ta muốn nhà ngươi hãy cũng ta sống chết một phen để
biết sức nhau trước mặt anh hùng bốn biển tụ hội phen này.
Thiết Hào trang nghiêm đáp :
- Nếu không nói rõ lý do nhà
ngươi thù hận và không bộc lộ những điều gian ngoan của chính ta đây thì ta nhất
định không giao đấu với ngươi được.
Diện Hổ nói :
- Ngươi cứ khăng khăng đòi
biết sự thật thì ta đâu có giấu ngươi làm gì. Ta hỏi vì sao nhà ngươi giết nàng
Hồng Diệp ?
Thiết Hào nói :
- Ta không có giết bất cứ một
người đàn bà nào cả.
Diện Hổ cười gằn :
- Vậy cây thước sắt là vật hộ
thân của ngươi nay đâu rồi ?
Thiết Hào bỗng trở nên buồn
bã hơn, liền cúi đầu giữ vẻ yên lặng. Diện Hổ thét lớn :
- Thật là hết sức dễ dàng từ
chối một điều mình đã nhúng tay nếu không có chút tang chứng. Thiết Hào ! Hãy
nghe ta nói điều này. Ta vì Hồng Diệp báo thù, ta đợi chờ dịp để vạch tội ngươi
cho khắp mọi người thấy rõ. Tường nhà của Phạm Lang Trung cao dày như thế chỉ
có bản lĩnh phi thân của ngươi mới đi vào lọt dễ dàng. Nhưng tất cả cái anh
hùng mã thượng của ngươi là để hành thích một người đàn bà thì thực xấu xa ghê
tởm chừng nào, thực là bất lương tàn nhẫn chừng nào !
Thiết Hào từ từ ngẩng lên rồi
quay nhìn khắp chung quanh với ánh mắt u buồn, đoạn xây lại phía Diện Hổ, nói bằng
một giọng như chìm hẳn đi :
- Ta đem danh dự của người
võ sĩ mà thề rằng ta không giết Hồng Diệp bao giờ và suốt cả đời ta cũng chưa
làm hại đến bất cứ một người đàn bà nào cả. Nhưng cây thước sắt bên cạnh xác chết
của nàng là đồ võ khí của ta. Ta không nói gì thêm nữa. Nếu miệng đời cứ nhất định
buộc tội cho ta là người hèn nhát, ta cũng xin chịu vậy thôi.
Diện Hổ cười phá lên và nói
bằng một giọng hết sức thỏa mãn :
- Đấy là một lời thú nhận
tuy không rõ ràng nhưng mà thành thực. Bây giờ ta trao lại cho ngươi cây thước
sắt ngày xưa và ngươi hãy cầm lấy nó mà cứu sinh mạng của ngươi.
Diện Hổ nói dứt lời thì ở dưới
đài phóng lên một cây thước sắt. Diện Hổ đón bắt rồi chẳng nói chẳng rằng phóng
mạnh vào người Thiết Hào. Thiết Hào nhanh như chớp hả miệng đớp lấy cắn chặt
thanh sắt vào giữa hai hàm răng và nắm nó đưa soi lên dưới ánh đèn lồng, nói bằng
một giọng vô cùng phẫn nộ :
- Đã khá lâu rồi, ngày nay
ta mới trông thấy được mày. Khí giới vũ phu, mày đã làm nhục cho ta không ít,
đã làm sầu não lòng ta quá nhiều.
Rồi quay lại Tiêu Diện Hổ,
Thiết Hào nói :
- Từ khi thanh sắt của ta mất
đi thì ta không còn dùng khí giới nào khác, ngoài bản thân của ta với đôi tay,
đôi chân, với sức mạnh của khí lực trong người. Lệ thuộc vào khí giới là lệ thuộc
vào một sức mạnh ở ngoài mình, là tự hạn chế mình. Ai ngờ trong cái rủi vẫn có
cái may, mất đi thanh sắt tàn bạo và độc ác này ta mới khám phá được rằng ngay
trong mỗi người chúng ta vẫn còn khá nhiều thanh sắt tàn bạo và độc ác hơn nữa.
Bởi vậy ta không cần ngươi trao lại vật này đã từng đẫm máu của người đàn bà mà
ta yêu mến ngày xưa, hôm nay trước mặt anh hùng tứ xứ, ta sẽ thủ tiêu món khí
giới này.
Nói xong, Thiết Hào giở
thanh sắt lên, thu hết gân lực bẻ gập làm đôi rồi bẻ gập làm tư, cuối cùng bóp
lại thành một khối sắt nhũn. Đoạn thả xuống sàn đài, Thiết Hào dậm một gót giày
lên đấy khiến cho bẹp dí như lát gỗ mỏng. Cuối cùng, Thiết Hào vận dụng nội
công hít một hơi dài kéo miếng sắt mỏng từ từ lên khỏi mặt sàn. Đến khi miếng sắt
áp sát vào mặt mình rồi, Thiết Hào cắn lấy, đoạn phun mạnh vào trụ đài bên cạnh.
Miếng sắt vun vút rạch làn không khí bay đến nghiến đứt cây trụ làm đôi, đánh
rơi mấy chiếc đèn lồng ngả nghiêng ở trên sàn đài.
Tiêu Diện Hổ chứng kiến tất
cả những trò chơi biểu diễn của Thiết Hào với một vẻ mặt ban đầu có ý khinh thường
dần dần chuyển qua kinh ngạc và cuối cùng, khi nửa cây trụ đài đổ xuống thì
Tiêu Diện Hổ không còn giữ bình tĩnh, vô tình lùi lại mấy bước, giữ im lặng hốt
hoảng, không nói lời nào.
Thiết Hào biểu diễn xong rồi
quay lại, thoáng nhìn Diện Hổ thấy rõ sự khiếp sợ của đối phương nên vội quay mặt
đi để tránh cho họ Tiêu khỏi điều xấu hổ.
Bỗng Diện Hổ gào lên :
- Thiết Hào, ta đã thấy bản
lĩnh của mày đó rồi. Nhưng ta cũng thấy dã tâm của mày hơn thế nữa. Mày muốn
đem tài năng che lấp tội ác, muốn đem kỹ thuật biểu diễn đánh tan ý nghĩ phục
thù. Nhưng mà ta không quên được lời thề trên mộ của nàng Hồng Diệp. Ta phải liều
chết để giết mày.
Lập tức Diện Hổ phóng mạnh một
cú đá vào người Thiết Hào, nhưng Thiết Hào đã lùi trở lại. Diện Hổ vừa hồi thế,
chuẩn bị một cuộc tấn công quyết liệt, giương đôi mắt tròn xoe sòng sọc ánh lửa
căm hờn và vểnh chòm râu quay nón rung chuyển trong sự phẫn nộ cực điểm báo hiệu
một sự tập trung thần lực để dồn vào một sức chiến đấu cho đến kỳ cùng. Nhưng
dưới đài một người đã lẹ làng nhảy lên như một chiếc lá vèo bay trước gió.
Khi người ấy rơi xuống, đứng
giữa Trịnh Thiết Hào và Tiêu Diện Hổ thì Khải Hùng ngạc nhiên nhận rõ là người
ăn mày ở trong ngôi miếu hôm nào.
Người ăn mày vẫn mặc áo quần
cũ nát và rách rưới như lần trước nhưng trên đầu đã mất chiếc nón tả tơi mà có
một vành khăn nhiễu màu tía còn mới tinh hảo. Giương cặp mắt sáng quắc trong một
khuôn mặt gầy gò, xương xẩu, người ăn mày cất một giọng sang sảng nói lớn :
- Ta đến quấy rầy các ngươi
là điều có lỗi, mong rằng các ngươi lượng thứ cho ta. Nhưng vì ở đời có nhiều sự
thật cần phải có người chịu khó nói lên thì mới bảo vệ được cho lẽ phải. Ta
không muốn chứng kiến những cuộc tranh chấp cá nhân và càng không thừa nhận những
sự hồ đồ. Ở đây có sự hồ đồ rất lớn giữa hai người vốn là hai bậc kỳ tài ở đất
Hồi Giang. Ta muốn nhắc lại cái chết của nàng Hồng Diệp và ta biết chắc rằng
không phải là Trịnh Thiết Hào đã có nhúng tay vào đó, giữa hai người này phải
có một người thứ ba xen vào. Người ấy chính là thủ phạm giết nàng Hồng Diệp. Hễ
phàm là người có võ nghệ, đã tự xếp hàng vào khách mã thượng anh hào, không ai
lại chịu làm điều mờ ám và gây tội lỗi cho kẻ khác. Ở trong các vị đứng chung
quanh đài, ta biết có người thủ phạm. Ta mong rằng kẻ ấy sẽ bước lên đây làm
cho sáng tỏ sự thực.
Nói xong người ăn mày im lặng
nhìn quanh tỏ ý chờ đợi. Tất cả những người tập hợp chung quanh hết thảy đều
nín lặng có ý đợi chờ. Một lát không có bóng người nào xuất hiện, người ăn mày
bèn quát lớn :
- Thực là khốn nạn cho kẻ
làm điều tội lỗi lại gây tai họa cho người. Thế mà cũng tự cho mình là tay bản
lĩnh, cũng tự thấy mình là khách anh hào. Thực là nhục nhã ! Ném đá giấu tay
không phải là tư cách của người mã thượng. Nay ta bảo thật, nếu kẻ hèn nhát giết
nàng Hồng Diệp không dám cả gan thú nhận tội mình thì bắt buộc ta ra tay trừng
trị.
Nói xong, người ăn mày dừng
lại nhìn chăm chăm vào đám đông. Mọi người đang còn ngơ ngác bỗng thấy người ăn
mày quát lên :
- Đứng lại !
Rồi chỉ tay vào góc đài bên
trái nơi chỗ trụ đèn ngã đổ lúc nãy chỉ còn một vùng ánh sáng âm u. Và người ăn
mày lại cất giọng nói sang sảng :
- Nhà ngươi đừng hòng trốn
thoát khỏi đây. Bất cứ nơi nào ta đã phóng mắt bao trùm lấy được thì tất cả những
cái xấu xa bẩn thỉu đều không trốn thoát được ta. Hãy bước lên đây lập tức.
Có tiếng ồn ào dưới đám đông
rồi một gã to lớn râu xồm loi ngoi bước đến chân đài phi thân nhảy lên. Khải
Hùng thấy rõ là gã chiếm đoạt chỗ nằm nơi miếu của người ăn mày đã bị hạ ngã
trước miếu hôm nào.
Bây giờ trông gã không còn
dương dương tự đắc như trong cửa miếu hôm nọ cúi rút viên gạch dưới thềm. Đầu
gã cúi xuống để tránh một sự xấu hổ. Người ăn mày nói :
- Ngươi tiến lại đây !
Và gã ngoan ngoãn vâng theo
như một đứa trẻ vâng lời người lớn. Người ăn mày nói :
- Cái can đảm giết người
không phải là cái can đảm thực sự. Đó chỉ là một thú tính cuồng điên, đó chỉ là
một manh tâm bạo ác. Can đảm chân chính của con người là dám đứng ra bênh vực lẽ
phải, bảo vệ sự thực. Thú nhận tội lỗi của mình là nhắm mục đích ấy. Ta biết rằng
ngươi không bao giờ có thể có được cái can đảm ấy, bởi vì suốt cả đời ngươi,
ngươi chưa can đảm bao giờ. Ngươi đã chiến đấu nhiều lần, chiến thắng nhiều lượt,
xông pha nhiều chốn, cướp đoạt nhiều người, đã đi vào những hiểm nghèo như đi
vào trong bóng tối, nhưng như thế chỉ là liều lĩnh phiêu lưu chứ không phải là
can đảm. Do đó nay ta đòi hỏi nhà ngươi cái vật quí ấy, làm sao ngươi có thể có
được ? Hắc Sơn ! Người đã ăn cắp thanh sắt của Trịnh Thiết Hào để giết chết
nàng Hồng Diệp ! Ngươi muốn gây chia rẽ giữa các anh hào võ hiệp, và muốn trả
thù cho ngươi về một mối tình ngươi không thỏa mãn. Bao nhiêu năm trời ngươi trốn
đi xa, bây giờ ngươi muốn trở về chỗ cũ làm gì ? Là bởi vì ngươi nuôi nhiều ác
ý nên đi đến đâu loài người cũng đuổi xua ngươi như xua đuổi loài ác thú. Ngươi
đừng tưởng rằng thời gian có thể gột sạch tội lỗi. Không đâu ! Thời gian càng
làm sáng tỏ tội lỗi...
Người ăn mày dừng lại đảo cặp
mắt sáng như sao ra bốn phía võ đài rồi nói :
- Bất cứ nơi nào trong đời
chúng ta cũng có tranh chấp giữa thiện và ác nhưng phân biệt đâu là thiện, đâu
là ác không phải là điều dễ dàng. Hắc Sơn ! Bọn ngươi đã tìm mọi cách phá hoại
để cho anh tài ở đất Hồi Giang không thể kết thành một khối. Nhà ngươi đã ăn cắp
cây thước sắt của Trịnh Thiết Hào để giết nàng Hồng Diệp hầu chia rẽ giữa Tiêu
Diện Hổ và Trịnh Thiết Hào, bởi vì hai người này trước kia đều đã đem lòng yêu
mến Hồng Diệp. Rốt cuộc giữa hai người đây, họ Trịnh và họ Tiêu âm ỉ một mối
căm hờn. Tiêu Diện Hổ vốn bản chất nóng nảy, nhiệt thành nên tự xem mình phải
có bổn phận báo thù cho nàng Hồng Diệp. Còn Trịnh Thiết Hào cay đắng vì sự hiểu
lầm đã mất nhiều năm truy tầm thủ phạm mà vẫn không thấy, sinh ra chán nản, buồn
phiền. Yêu thương một người thật là chính đáng. Báo thù cho người mình yêu, đau
khổ vì người mình yêu thực là chí tình. Nhưng đem cả cuộc đời mình phí bỏ vào một
mục đích như thế, hủy hoại tâm hồn vì một lo âu như thế, ta thấy thực không hợp
lý chút nào. Nay nhân gặp gở anh hùng tứ xứ tại đất Hồi Giang, ta muốn vì sự
đoàn kết của các anh tài mà gây lại tình thân ái giữa Trịnh Thiết Hào và Tiêu
Diện Hổ. Còn kẻ giết người vu phản là tên Hắc Sơn này đây, tùy liệu để cho mọi
người phân xử.
Lập tức, ở dưới võ đài, nổi
dậy nhiều tiếng la ó :
- Đánh chết nó đi !
- Phanh thây tên Hắc Sơn !
- Diệt trừ bọn phản loạn !
Tiếng la mỗi lúc mỗi mạnh
hơn và càng lúc càng dậy lên như những đợt sóng cồn. Đợi cho lớp sóng người lắng
xuống, Trịnh Thiết Hào mới từ từ tiến lại cạnh Tiêu Diện Hổ và cùng chìa cả hai
tay để nắm lấy nhau.
Thiết Hào nói :
- Tất cả những nỗi đau khổ của
chúng ta đây đều do những sự hiểu lầm.
Diện Hổ quỳ xuống cúi đầu
nói trong những tiếng nghẹn ngào :
- Dám xin đại huynh tha lỗi
!
Thiết Hào nâng Diện Hổ dậy
và nói :
- Thôi, đại ca cũng không
nên lấy đó làm điều phiền muộn mà nên cùng nhau vui mừng vì nay chúng ta đã hiểu
nhau rồi. Biết được loài người không phải toàn là xấu xa cũng là một điều an ủi.
Và quay sang người ăn mày,
Thiết Hào kính cẩn nói :
- Nếu không có ngài thì mối
nhục lớn của tôi biết đến bao giờ mới được giải tỏ.
Tiêu Diệp Hổ cũng nghiêng
mình nói :
- Và tôi phải gây tội ác vì
sự nông nổi.
Người ăn mày nói :
- Thôi, chúng ta còn gặp gỡ
nhiều về sau, không nên nói điều ân huệ làm gì. Bây giờ các ngươi liệu xử thế
nào về tên phản loạn Hắc Sơn ?
Trịnh Thiết Hào nói :
- Nó đã giết mất một người
đàn bà đáng quí là nàng Hồng Diệp, nay giết nó đi lại mất thêm một người nữa,
ích gì. Lấy trộm được cây thước sắt của tôi và vượt khỏi tường lũy của Phạm
Lang Trung, tên này ít nhất cũng là tay bản lĩnh, rèn tập lâu dài. Nay giết hại
nó thật là phí bỏ tài năng biết mấy. Hãy xin quý vị vì ích lợi chung mà để nó sống
và nhờ bậc lão hiệp của chúng ta đây cải tạo cho nó nên người.
Mọi người đều yên lặng, có vẻ
suy nghĩ. Giây lâu, ở dưới võ đài có nhiều tiếng nói ngụ ý bất bình. Hắc Sơn
bây giờ mới quỳ xuống :
- Tôi xin thưa rõ điều này,
trước khi chịu tội. Vì sao tôi giết chết nàng Hồng Diệp ? Và giết hại nàng tôi
lợi những gì ? Thực ra, tôi không có oán thù gì với nàng Hồng Diệp cũng như với
các anh hào tại đây. Nhưng từ thuở nhỏ đã bỏ công phu rèn luyện tập tành tự tạo
cho mình bản lĩnh nên khi đến tuổi thành nhân tôi đi tìm lập công danh ở chốn
kinh kỳ. Nơi đó, tôi trải bao nhiêu tháng ngày chạy chọt, luồn cúi, mà không
sao tìm được một người có uy quyền tiến cử, tôi đâm chán nản kết giao với nhiều
hạng bất lương, lui tới những chỗ ăn chơi, tửu quán trà đình. Dần dần tôi được
quen biết với một tên thủ hạ của An Dương Hầu vốn là thám tử triều đình. Tên nó
là Triệu Thanh Dân. Nó cho tôi biết triều đình từ lâu nghi kỵ Phạm Lang Trung
có những manh tâm phản loạn vì thường tiếp đón những bậc anh hào ở đất Hồi
Giang nên muốn trừ diệt, song chưa có cớ. Bởi vậy, Triệu Thanh Dân được lịnh
gây điều hiềm khích giữa các anh hào thường hay lui tới dinh cơ họ Phạm. Sau một
thời gian theo dõi chúng tôi được biết hai vị ở đây là Trịnh Thiết Hào và Tiêu
Diện Hổ tài năng bản lĩnh hơn người, và cả hai vị đều đã đem lòng mến yêu Hồng
Diệp, ái nữ của Phạm Lang Trung. Do đó, giết chết Hồng Diệp một cách kín nhẹm,
khôn ngoan, để gây chia rẽ giữa các vị này và gieo rắc sự thảm sầu, nghi kỵ cho
Phạm Lang Trung hầu làm tiêu ma tất cả ý chí khởi nghĩa của người. Sau khi thi
hành kế hoạch tôi biết mình đã lỡ lầm và tự thấy mình đã đưa mình vào một cách
hiểm nghèo khó nỗi toàn thân nên tôi tìm đường cao chạy xa bay. Cuộc đời của
tôi từ đấy là đời của hạng bất lương, gây nên biết bao tội ác, không còn có
chút nhân tình gì nữa. Nay lênh đênh phiêu bạt đã nhiều, trọn đời vẫn là một kiếp
giang hồ túng đói, lại nghe ở đất Hồi Giang có đả lôi đài nên muốn trở về cho
thỏa tấm lòng tưởng nhớ quê hương và sau là thỏa khát thèm chiêm ngưỡng những bậc
kỳ tài. Bây giờ tội lỗi đã được bộc lộ, xin đem cái chết đền tội.
Nói xong, Hắc Sơn rút vội
thanh gươm bên mình đâm ngay vào cổ. Nhưng nhanh như chớp Trịnh Thiết Hào kịp
thời giằng lấy thanh gươm và nói :
- Gây điều xấu xa, tàn ác rồi
khi tỉnh ngộ lại vội kết liễu đời mình, đó là một cách xử sự ích kỷ của kẻ yếu
hèn, không tự chống lại với những ý ác ẩn chứa ở trong người mình. Bởi vì ngươi
tự hủy diệt ngươi đi, tức là ngươi đã trốn thoát tất cả, xóa bỏ tất cả, thực
không chính đáng chút nào. Không, nếu ngươi quả tình thấy rõ những việc ngươi
làm từ trước đều là xấu xa, ích kỷ, thì ngươi hãy sửa đổi lại bằng một cuộc sống
tốt đẹp hơn xưa để đền bù lại những nỗi thiệt thòi ngươi đã gây ra. Thôi, hãy đứng
dậy đi, ta tin chắc ở đây vẫn còn kẻ sẵn sàng khoan dung đối với nhà ngươi.
Ngườí ăn mày từ nãy đến giờ
im lặng bây giờ mới cất tiếng nói dõng dạc :
- Hỡi các anh tài tứ xứ tụ hội
nơi đây ! Mỗi người đến dự đêm nay đều nhằm vào một mục đích. Mục đích ấy tuy
không hẳn là giống hệt nhau nhưng đều nhằm việc phát huy võ thuật của mình bằng
cách trực tiếp lên đấu võ đài hay là quan sát, học hỏi tài năng kẻ khác. Song
ta xin phép trình bày mấy lời thành thực sau đây, mong được các người lưu ý.
Theo như ta nghĩ, thì nơi võ đài không sao lộ hết tài năng của các ngươi được.
Đấu võ đài là sự biểu diễn tay đôi ở trong khuôn khổ, kiểu như một cặp gà chọi
trong lồng, đôi cá lia thia trong lọ mà thôi. Võ đài chân chính của chúng ta
đây phải là cuộc đời rộng rãi, cuộc đời phức tạp với bao nhiêu lẽ thiện điều ác
giao nhau, tranh chấp với nhau từng phút, từng giờ. Bởi vậy, khuôn khổ của võ
đài không sao lộ hết tài năng, bản lĩnh các ngươi, không sao lộ hết tinh thần,
ý chí các ngươi. Võ đài không phải là cuộc đời thu hẹp, đó là hình ảnh méo mó
cuộc đời rút ngắn, bởi vậy ta không tin rằng những kẻ thắng cuộc ở trên võ đài
có thể thắng cuộc ngoài đời. Lại thêm, võ đài còn có cái tác hại lớn lao là làm
cho các ngươi tự thấy thỏa mãn dễ dàng mà quên đi những cái sứ mạng lớn lao hơn
nữa. Không, con người không thể tự mình bằng lòng những thành công nhỏ nhặt như
thế. Do đó, đây chính là lần thứ nhất ta trèo lên cái võ đài bằng gỗ và cũng là
lần cuối cùng ta đứng trên đấy. Ta muốn mời tất cả các ngươi cùng ta tìm đến một
cái võ đài lớn hơn, rộng hơn, xứng đáng hơn nhiều. Ta kêu gọi tinh thần hùng
tráng của các ngươi hưởng ứng lời ta, cùng ta đứng lên tập hợp lực lượng, gây
nên sức mạnh, bảo vệ lẽ phải chống với tà tâm, ngụy ý, tiêu diệt gian trá, đánh
đổ tham tàn. Nếu các ngươi cứ mang thanh gươm nghĩa hiệp cứu khốn phò nguy thì
thử hỏi trong cuộc đời lầy lội tội ác này đây, các ngươi giúp được mấy người
cùng khổ, cứu được mấy kẻ lâm nguy ?
Hay đó chỉ là một sự dối gạt lương tâm bằng
vài hành động can cường rồi khoác vào mình một cái nhãn hiệu anh hùng, mã thượng,
nghĩa hiệp trượng phu. Ta thật có lỗi khi đã xúc phạm các ngươi như thế, mong rằng
các ngươi miễn chấp cho ta.
Song ta nhận thấy rằng mười
vạn anh hùng nghĩa hiệp cũng không sao đủ để mà cứu vãn những điều khổ ải trên
cuộc đời này. Chỉ có một cách : diệt lũ hôn quân, bạo chúa, đạp đổ gian tặc,
nghịch thần, cử ngườĩ trí thức anh minh lên ngôi trị vì trăm họ mới mong xua sạch
màn đêm u ám bao phủ non sông. Nhưng ta lại nhận thấy rằng, hễ vương triều nào
chấp chính, ban đầu thì cũng cần mẫn siêng năng nhưng càng ngày thì càng trở
nên lụn bại thối tha, mục nát, chỉ lo củng cố tư quyền, tư lợi mà không thương
mến muôn dân. Vậy ta mong rằng các ngươi hãy cùng với ta hợp thành sức mạnh,
xoay đổi thế cuộc rồi chúng ta cùng rút về nơi căn cứ lập một lực lượng an dân,
hễ bất cứ triều đại nào thối nát thì sẽ quyết vì dân ra sức diệt trừ. Chúng ta
sẽ tự làm lấy lúa gạo mà ăn, dệt lấy vải bố mà mặc, đời đời kiếp kiếp truyền
cho con cháu chúng ta ý chí bảo vệ lẽ phải, bảo vệ người dân, ủng hộ tất cả
vương triều nào làm những điều hợp lý, tiêu diệt bất cứ lực lượng nào gây cảnh
tham tàn. Nay ta nhắm thấy miền Ngũ Đài Sơn, núi cao hiểm trở, đất tốt dân
thưa, có thể làm nơi tập hợp anh hùng, mưu việc lâu dài, các người đồng ý hay
không ?
Người ăn mày vừa nói dứt lời,
thì những tiếng hò reo hưởng ứng rùng rùng chuyển vang như sấm dậy. Nhiều tiếng
gào to :
- Xin lỗi hiệp sĩ cho biết
tánh danh ?
Người ăn mày nghiêng đầu nói
:
- Ta là Vương Thái Hòa ở Liễu
sơn.
Tức thì muôn ngàn những tiếng
reo hò bốc dậy :
- Vương Thái Hòa vạn tuế !
Vương Thái Hòa lại dõng dạc
nói :
- Ta mong gặp đủ chư vị ở
Ngũ Đài Sơn một ngày gần đây. Thôi ta xin cáo biệt.
Và quay lại Hắc Sơn, họ
Vương hỏi :
- Thế nào ? Nhà ngươi có muốn
theo ta hay không ?
Hắc Sơn cúi đầu, đáp :
- Tôi xin sống chết vì ngài.
Họ Vương nắm tay Hắc Sơn và
cùng phi thân xuống đài. Chỉ trong khoảnh khắc, cả hai biến mất trong bóng đêm
dài.
Sau khi bế mạc cuộc đả lôi
đài, cụ Thiết Hào mời Tiêu Diện Hổ và Đại Thường về nhà thì trời đã khuya lắm rồi.
Cụ Thiết Hào nói :
- Bao nhiêu oán hận riêng tư
bây giờ coi như đã xóa sạch rồi. Chỉ còn một nỗi hận lớn mà Vương Thái Hòa vừa
nói, tôi muốn lưu đại huynh lại bàn định xem sao.
Tiêu Diện Hổ trả lời :
- Đem cuộc đời ngang tàng của
mình để trả thù cho kẻ nữ nhi mà không dám tiếc, lẽ nào lại tiếc vì một việc
nghĩa lớn hay sao ? Trịnh Đại ca cứ tin ở Diện Hổ này.
Trong khi hai người rót rượu
ngồi đối ẩm dưới mảnh trăng khuya thì Đại Thường cũng theo Khải Hùng mà vào
phòng ngủ. Sương càng thấm lạnh, hai vạt áo của Thiết Hào và Diện Hổ thảy đều ướt
cả mà hai người vẫn chưa chịu đi nghỉ, mỗi người mỗi câu ôn lại cuộc đời đã qua
trong giọng bùi ngùi. Thiết Hào lại nói :
- Tôi đã nhiều năm sống kiếp
giang hồ võ hiệp nhưng rốt cuộc lại tôi thấy toàn là phí bỏ sức lực vô ích mà
thôi. Câu nói của Vương Thái Hòa thực là chí lý. Nỗi khổ ở trên cõi đời vẫn còn
mênh mang như sóng trên mặt biển khơi thì sức mạnh một thanh gươm khó lòng trừ
gian phò khốn cho có kết quả. Dù có trăm ngàn thanh gươm nghĩa hiệp cũng chẳng
hơn gì. Cái đau khổ ngấm ngầm bủa lên khắp chốn, kìa núi rậm rừng sâu, trùng
dương, đại hải, kìa là thị thành, kìa là đồng nội, ở đâu còn kẻ áp bức, còn những
bất công là vẫn hãy còn đau khổ tràn trề.
Tiêu Diện Hổ nói :
- Bây giờ nghĩ lại tôi mới
thấy rõ những gì đã chi phối cuộc đời tôi trôi nổi bấy lâu. Cái bản lĩnh anh
hùng mà người ta thường nhắc đến với sự tôn xưng sùng bái chẳng qua chỉ là lòng
tham vọng cá nhân vô nghĩa mà thôi. Anh hùng thay là kẻ vô danh ! Mãnh liệt
thay là sức mạnh không dùng dao kiếm ! Và nghĩa hiệp thay là những kẻ đứng ra
thu xếp cuộc đời rộng rãi dung chứa muôn vạn thế nhân trong lẽ nhân đạo công bằng.
Trịnh Thiết Hào cười nói :
- Ai ngờ đôi ta bàn bạc mà ý
kiến tận cùng lại gặp nhau, thực là thú vị không biết chừng nào. Nhưng nếu tôi
không lầm thì thái độ chúng ta đã vì tuổi tác mà nhuốm ít nhiều tính chất bi
quan. Không nên ! không nên ! Con đường ta đi vẫn còn là dài, nên để cho khí lực
triển dương tươi tốt chớ đừng làm cho mai một tiêu diêu. Bây giờ ta đã hiểu
nhau, xin hãy vì nhau đi lại ít đường quyền thuật để thêm kết mối giao tình.
Nói xong, Thiết Hào cởi áo đứng
dậy. Lập tức Diện Hổ cũng cởi áo, đứng lên.
Thiết Hào cười hỏi :
- Chúng ta giao đấu với nhau
hay sao ?
- Đại ca đã muốn giải sầu
tôi cũng xin vâng. Nhưng biết bản lĩnh cao cường của đại ca rồi. Nay có giao đấu,
cũng là học thêm đôi ngón tài tình.
- Nếu quả cùng nhau chỉ vẽ
ngón quyền thì rồi đây ta còn nhiều dịp tốt, đâu phải vội vàng ép uổng trong
lúc khuya khoắc thế này. Nhưng thú thật với đại huynh, tôi vừa đánh hơi thấy kẻ
lạ mặt lảng vảng quanh đây nên muốn cùng với đại huynh đuổi bắt xem nào.
Nói vừa dứt lời bỗng thấy một
chiếc lá vèo bay rơi xuống trước mặt. Thiết Hào cúi xuống tỏ vẻ ngạc nhiên hết
sức rồi đưa cho Tiêu Diện Hổ, nói rằng :
- Đại ca hãy nhìn chiếc lá
mà xem.
Diện Hổ cầm lấy có vẻ suy
nghĩ rồi cũng kinh ngạc nói lên :
- Quanh đây không có ngô đồng,
mà lại rụng lá ngô đồng là một điều lạ. Hơn nữa, không phải gió thu mang lại bởi
vì gió thổi theo chiều Đông Bắc, Tây Nam mà lá thì bay ngược chiều Tây Nam Đông
Bắc, đó là hai điều lạ. Tay này phải là bản lĩnh khác thường !
Thiết Hào nói :
- Ta đoán lá này là của Thái
Hòa.
Nói xong, bèn theo chiều lá
bay lại mà gọi to lên :
- Mời Vương tiên sinh ghé
vào tiệm rượu chơi nào !
Nói vừa dứt lời đã thấy
Vương Thái Hòa lững thững đi vào.
Họ Vương nói :
- Được uống rượu khuya với kẻ
thân tình dưới ánh trăng thu thực không có gì sung sướng cho bằng. Đó là giấc mộng
đã có ngàn đời ôm ấp thế mà ta chưa được hưởng bao giờ. Nay lại tình cờ gặp gỡ,
ta cũng trộm lấy lịnh ta mà tự cho phép ta đây vui với các người.
Rồi Vương Thái Hòa ngồi vào
bàn rượu, cười tiếp :
- Kìa ! hai người mặc áo vào
đi. Chẳng lẽ lại muốn giao đấu nữa sao ?
Thiết Hào và Diện Hổ cùng cười
và ngồi vào bàn rượu. Vương Thái Hòa nói :
- Căn cứ vào cái việc xảy ra
trong đêm đả lôi đài này thì ta có thể rút ra một nhận xét sau đây về cuộc đời,
là đa số con người giận nhau, thù nhau là vì có sự hiểu lầm. Xét cho đến cùng
thì nhiều mâu thuẫn xung đột có thể hòa hợp với nhau một cách dễ dàng.
Uống xong một chén rượu,
Thái Hòa nói tiếp :
- Đáng lẽ ra ta ghé lại đây
từ sớm nhưng mà ta còn họp anh em để họ lên đường. Hai vị ở đây chắc không rõ rằng
trong số những người đi dự đả lôi đài đêm nay quá nửa là người trong hàng ngũ
chúng ta, đã mượn cớ dự đêm vui mà gặp gỡ cùng nhau, bàn định những điều cần phải
xúc tiến. Anh em bây giờ đã lên đường rồi, ta ghé lại đây muốn cùng hai vị bàn
thêm ít việc quan hệ. Hiện nay, lực lượng của ta đã được tăng cường đông đảo tập
trung về mạn Dương Châu. Để giữ cho vững miền này ta có hai miền án ngữ quan trọng,
đó là Liêu Giang và Hồi Giang vậy. Đất Hồi Giang này ta muốn nhờ cậy Thiết Hào
giữ lấy và phát triển thế lực, còn đất Liêu Giang có Hàn Thủ Bá xưng hùng, y vốn
là người nổi danh đại hiệp, có tài song không có chí, nếu biết tìm cách liên kết
với y và bắt được y khuất phục thì rất có lợi cho ta. Liêu Giang là kho lương
thực. Hồi Giang là kho nhân tài, Dương Châu là thế dựa lưng vô cùng hiểm trở, nắm
được ba miền là tạo được vị trí và sức mạnh rồi đó. Bây giờ ta phải giã từ hai
vị mà lên đường. Trước khi rời khỏi nơi đây ta có một điều căn dặn hết sức thiết
yếu, đó là phải lo gấp rút thi hành ý định nắm lấy hai miền trước khi triều
đình ra tay can thiệp. Sau đó phải cùng hạn định ba năm củng cố thế lực rồi sẽ
khởi sự. Bắt đầu ngày mai trở đi nếu muốn tìm ta xin mời hai vị đến mạn Dương
Châu. Ta cũng muốn nhờ hai vị điều này, là cho ta xin Khải Hùng cùng với Đại
Thường đi theo với ta ngay trong đêm nay có được hay chăng ?
Trịnh Thiết Hào và Tiêu Diện
Hổ cùng nói :
- Nếu được sư huynh lưu ý
thâu nạp như vậy thật may mắn không biết chừng nào.
Thiết Hào nói tiếp :
- Khải Hùng là người gốc ở
Dương Châu nay được trở về quê cũ, còn gì sung sướng cho bằng. Nó chỉ là một đứa
cháu nuôi của tôi thì tại sao lại không là một cháu nuôi của sư huynh được ?
Diện Hổ cũng nói :
- Đại Thường là con của một
gã lục lâm bị kẻ thù giết chết, tôi phải cứu mạng đem về nuôi dưỡng. Nó rất ham
mê võ nghệ nên rất vui lòng mà cùng đi với sư huynh.
Thiết Hào bèn vào nhà đánh
thức cả hai nhưng đến phòng ngủ thì nghe tiếng hai người rì rầm. Thiết Hào cười
nói :
- Vẫn chưa ngủ sao ? Ra đây
có chút việc cần.
Khải Hùng và Đại Thường nghe
nói được theo Vương Thái Hòa thì mừng rỡ lắm nhưng cũng không ngăn được sự buồn
lòng vì phải xa cách Thiết Hào và Tiêu Diện Hổ. Nhất là Khải Hùng lưu luyến Yến
Nhi và Tiểu Thanh, nay phải giã từ cảm thấy hết sức băn khoăn. Cụ Thiết Hào nói
:
- Tất cả những cuộc chia tay
ít nhiều cũng có điều buồn. Song không thể vì bảo vệ một đôi tình cảm vụn vặt
mà quên ý nghĩa lớn lao của cả cuộc đời. Thôi, để cho Yến Nhi và Tiểu Thanh yên
giấc, hai con thu xếp hành lý và kịp lên đường ngay bây giờ kẻo Vương tiên sinh
chờ đợi.
Hai người đành phải cúi đầu
tuân lệnh.
Chương 06
Sáng hôm sau thức giấc, biết
rằng Khải Hùng đã đi, Yến Nhi và Tiểu Thanh hết sức buồn bã. Tiêu Diện Hổ trông
thấy con bé Tiểu Thanh rất là kháu khỉnh, thông minh bèn nói với Thiết Hào :
- Cả đời cô độc của tôi hết
sức khát thèm chút con nhỏ để được săn sóc thương yêu. Đại ca có cả hai con,
sao không chia xẻ cho tôi bớt một ?
Thiết Hào nói :
- Con bé Tiểu Thanh là do Khải
Hùng đem đến sau khi vớt được giữa dòng trên một chiếc bè thả ở trên sông. Theo
như lời nói của Khải Hùng trong đêm đả lôi đài vừa qua thì chính đại ca cũng cứu
sống cho hai đứa nó. Vì cái ơn ấy mà nó về với Đại ca thật hợp vô cùng. Thực buồn
làm sao ! Sự chia tay này dắt dẫn đến chia tay khác, bây giờ Tiểu Thanh ra đi
thì Yến Nhi chắc sẽ buồn rầu và tôi cũng rất khổ tâm.
Thiết Hộ vừa gắng gượng cười
rồi tiếp :
- Nhưng rốt cuộc rồi ta vẫn
còn nguyên như cũ là hai cha con chớ chẳng mất gì. Không mất nhưng lại mất nhiều,
đó chính là cái éo le của chuyện tình cảm. Thôi, đại huynh yên lòng : ta nên
chia xẻ với nhau cho được công bằng. Ta sẽ cho Tiểu Thanh theo với sư huynh.
Suốt mấy ngày sau Diện Hổ
không ngớt quấn quít bên cạnh Tiểu Thanh để gây cảm tình. Bé Tiểu Thanh được
người chiều chuộng lấy làm thích lắm, cả ngày bi bô chuyện trò với Diện Hổ nói
lên nhiều câu ngây thơ ngộ nghĩnh khiến Thiết Hào vừa cười vui vẻ vừa xúc động
bùi ngùi. Ba ngày sau Thiết Hào bảo với Tiểu Thanh :
- Con theo bác về thăm quê
ngoại của con. Đi với bác đây sẽ gặp nhiều điều vui thích. Chừng nào nhớ ta và
chị Yến Nhi con sẽ trở lại đây nghe !
Tiểu Thanh ngoan ngoãn vâng
lời, tưởng tượng những cảnh vui lạ trên những con đường sắp tới, Yến Nhi không
nén được niềm xúc cảm, dấu mặt trong khăn để khóc rưng rức.
Cụ Thiết Hào bảo :
- Con không nên buồn. Sự buồn
bã vốn là tình cảm bất lực, yếu đuối, có thể thành nguy hiểm và giả tạo nữa.
Người đời đâu có hẹn rằng ở mãi với nhau được đâu, thì sự chia ly chẳng qua là
lẽ tất nhiên như nước chảy, lá rơi, phiền não làm gì cho thêm khổ sở. Con hãy
nhớ lấy điều này : nên hay không nên, đó là sức sống mạnh mẽ của con người. Tiểu
Thanh bây giờ phải đi, là điều nên vậy. Ta phải làm cho sự nên thuận lợi, dễ
dàng, mà đừng cản trở bằng những tình cảm ủy mỵ.
Khi đưa Diện Hổ và Tiểu
Thanh xuống thuyền, Thiết Hào cố nén buồn bã, cười nói vui vẻ để cho mọi người
cảm thấy tự nhiên.
Diện Hổ dắt Tiểu Thanh ra bến
rồi bồng nó đặt vào trong khoang thuyền. Trước khi nhổ sào, Diện Hổ nói với Thiết
Hào :
- Bây giờ tôi thấy như mình
khác hẳn ngày xưa, không còn là tên Diện Hổ phiêu lưu, vong mạng. Ơn ấy là nhờ
đại huynh và nhờ Vương lão hiệp. Và chắc sau đây còn nhờ ở bé Tiểu Thanh này nữa.
Quay sang Yến Nhi, Diện Hổ
nói :
- Cháu hãy yên lòng, ta sẽ
chăm sóc em cháu công phu, kỹ lưỡng như cháu đã từng chăm sóc lâu nay. Một ngày
gần đây ta sẽ đưa bé Tiểu Thanh trở lại Hồi Giang thăm cháu.
Thuyền nhổ neo, và giương buồm,
lướt gió. Ra giữa dòng, Diện Hổ bế bé Tiểu Thanh lên để cho Tiểu Thanh nhìn ngắm
chung quanh và nói :
- Con đã xem lại cho ta rất
nhiều ý nghĩ phải chăng về lẽ đời người. Ta sẽ vì con mà sống, vì con mà thắng,
và qua sự sống của con ta thấy rõ thêm sự sống của ta và của nhiều người. Tiểu
Thanh ! con là một giọt máu bỏ rơi, sự sống đã bị chối từ nhưng con là cái bùa
hộ mạng cho ta từ đây.
Thuyền đến bến Liêu Giang,
Diện Hổ dắt Tiểu Thanh lên bờ, tìm nơi quán trọ nghỉ ngơi rồi đưa Tiểu Thanh dạo
chơi khắp chốn phố phường.
Khi vào một tiệm nước ở bờ
sông, Diện Hổ bỗng thấy có bà cụ già ngồi chăm chú ngó Tiểu Thanh không chớp mắt
thì rất ngạc nhiên bèn hỏi :
- Cụ xem cháu bé này có gì
là khác thường chăng ?
Bà cụ lắc đầu rồi nói :
- Không, không, chẳng có gì
là khác thường. Trông xinh đấy chứ.
Rồi bà bèn hỏi :
- Là con hay cháu của ngài ?
Diện Hổ đáp :
- Con gái tôi đấy.
Trên mặt bà cụ thoáng lộ một
vẻ nghi hoặc. Một lát bà ta lại hỏi :
- Có biết Hàn Thủ Bá không ?
Diện Hổ trả lời :
- Có được nghe danh nhưng
chưa thấy mặt.
Người đàn bà nói :
- Quê ngài ở đâu ?
Diện Hổ thoái thác đáp :
- Ở mạn Châu giang.
Bà cụ nói tiếp :
- Con gái của ông có cái nốt
son ở trên khóe miệng bên phải thực là quí giá vô cùng. Ta cũng vui miệng mà
nói điều này : ở đây chỉ có nhà Hàn Thủ Bá là con cái đều có nốt son đó. Cô bé
nhỏ này, xin lỗi ông, thoạt nhìn tôi cứ tưởng là con cháu của Thủ Bá bởi vì mặt
mày đã giống như tạc mà thêm một nốt ruồi son y hệt nốt ruồi Thủ Bá.
Diện Hổ nói :
- Sự giống nhau giữa người
trong thiên hạ vốn là chuyện thường. Chẳng hay lão mẫu sống về nghề gì ?
Bà cụ đáp:
- Ta làm nghề nhũ mẫu, đã từng
nuôi con mấy năm cho Hàn Thủ Bá.
Diện Hổ bèn hỏi :
- Thủ Bá nhà ở nơi nào ?
Bà cụ đáp :
- Cách đây năm dặm về phía
Tây Bắc, có đồi Trúc Sơn, nhà của Thủ Bá ở đấy.
*
Tối hôm ấy đợi cho Tiểu
Thanh ngủ xong, Diện Hổ bèn đến Trúc Sơn.
Lúc ấy đêm đã về khuya,
trăng sáng vằng vặc. Nhảy qua mấy dãy tường dày, Diện Hổ tiến vào bên trong tư
thất của Hàn Thủ Bá. Bốn bề vắng vẻ, quang cảnh cô tịch âm thầm. Phi thân lên một
nóc nhà, Diện Hổ giở ngói, luồn vào trong chuyền xuống gian phòng rộng leo lét
chong một ngọn đèn hồng lạp.
Đang còn ngơ ngác, bỗng nghe
tiếng nói :
- Có nước và bánh sẵn rồi,
tiền trên đầu tủ ở góc gian phòng. Lấy đi và để cho ta yên giấc.
Diện Hổ nhìn lên kinh ngạc
thấy trên chiếc bàn con có một chén trà tỏa khói cùng với một đĩa bánh ngọt.
Tiếng nói từ trong vọng ra :
- Ta không quen với những sự
tiếp đãi dềnh dàng vô ích. Nhưng ta đã rõ ngươi tìm đến ta với mục đích gì. Nếu
lỡ độ đường thì hãy cầm lấy mà đi, ngày sau không cần trả lại làm gì cho thêm
phiền phức đôi bên.
Tiêu Diện Hổ đáp :
- Cám ơn tấm lòng hào hiệp của
ngươi, thật là chẳng hổ chút nào với cái danh hiệu cao quí mà xưa nay người đời
đã tặng cho ngươi. Nhưng xin lỗi ngươi, ta tìm đến đây không phải là để rửa hận,
cũng không phải để ăn nhờ, mà chỉ vì nỗi khổ của lòng người mà đến. Nếu không
buồn ngủ quá nhiều thì xin gặp mặt cùng nhau nói chuyện.
Giây lát, một người to lớn,
vẻ mặt phương phi, đi ra. Diện Hổ nhìn thấy dung mạo người ấy rất giống Tiểu
Thanh và ở bên vành môi cũng có một nốt ruồi son rất đỏ. Hàn Thú Bá hỏi :
- Cớ sao không đến ban ngày
?
Diện Hổ đáp :
- Có đến ban đêm mới rõ hết
bản lĩnh của tôn huynh.
Thủ Bá nói :
- Bản lĩnh của ta không phải
chỉ là nghe được chân người ngoài xa. Nếu muốn biết thêm cho rõ, thì xin cùng
nhau thử sức ngoài vườn.
Diện Hổ cười đáp :
- Được lắm, nhưng tiếc rằng
ban nãy tôi đã nói với tôn huynh là vì nỗi khổ của tôn huynh mà đến. Nay lại
cùng nhau thử sức thì chỉ ngại rằng càng gieo thêm những nỗi khổ cho tôn huynh
thôi.
Hàn Thủ Bá nghe nói như thế,
cặp mắt trợn tròn, lộ vẻ hết sức căm tức nhưng vẫn ngồi yên ra ý nóng lòng đợi
chờ tìm hiểu.
Diện Hổ nói :
- Tôn huynh chắc còn phải
nghỉ nên tôi không thể ngồi nói dài dòng. Sự thực tôi phải đi đến nơi đây vào
lúc ban đêm là vì sự bất đắc dĩ. Ban ngày tôi không thể rời nửa bước đứa con mà
tôi hết sức mến yêu.
Vẻ mặt của Hàn Thủ Bá bỗng
nhiên trở thành trầm ngâm, nghĩ ngợi. Diện Hổ nói tiếp :
- Đứa con không mẹ bao giờ
cũng thấy cô đơn cho nên tôi phải thừa khi nó ngủ mà đến với ngài. Bởi vậy tôi
xin nói vội ngài nghe để còn trở về canh chừng giấc ngủ cho nó.
Hàn Thủ Bá hỏi :
- Con ngài mấy tuổi ?
Diện Hổ đáp :
- Độ năm, sáu tuổi.
- Trai hay gái ?
- Con gái.
Hàn Thủ Bá ngồi yên có vẻ
nghĩ ngợi xa xôi. Diện Hổ thở dài rồi đáp :
- Nhưng buồn thay, không phải
là con sinh đẻ. Kể ra, đối với tôi, dù là sinh đẻ hay là con nuôi cũng chẳng
khác gì, bởi vì không phải máu huyết là một vấn đề quan trọng nhưng chính công
phu nuôi dưỡng, tấm lòng đùm bọc thương yêu mới là đáng kể. Nhưng buồn là vì
tôi e rằng tôi sắp sửa phải xa cách nó. Nguyên là tôi nghe tôn huynh có một đứa
bé phải bị lạc loài cách đây năm sáu năm rồi nên muốn tìm đến hỏi thăm có phải
chính là giọt máu của tôn huynh không. Nếu quả chính phải thì cũng chia sớt nỗi
vui khi thấy cha con đoàn tụ một nhà.
Thủ Bá bèn nói :
- Cho ta thấy được nó không
?
Diện Hổ bèn đáp :
- Rất mong như vậy.
Cả hai cùng đứng dậy và ra
ngoài. Trăng vẫn sáng, Diện Hổ phi hành đi trước, Thủ Bá theo sau. Đến phòng trọ,
Thủ Bá nói :
- Tài phi hành của tôn huynh
thực xuất sắc, tôi phải đi theo hết sức khó khăn.
Vào phòng, nhìn thấy Tiểu
Thanh còn thiêm thiếp ngủ, Thủ Bá đứng ngắm giây lâu rồi nói :
- Cái nốt ruồi kia chính là
dấu hiệu rõ vậy. Đây là đứa con út của tôi, con một tiểu thiếp. Nhân lúc tôi đi
vắng nhà kẻ thù của tôi đã bắt nó.
Diện Hổ bèn kể lại câu chuyện
nghe cụ Thiết Hào thuật lại về chiếc bè trên sông rồi nói :
- Theo như tôn huynh kể chuyện
thì chính em đây là con Tôn huynh rồi đó. Điều lạ là tại sao chúng bắt lấy cháu
nhỏ lại không giết đi mà thả trên sông. Cháu bé vớt được trên một chiếc bè thuộc
một nhánh sông về ngã Liêu Giang. Nay đã là con của tôn huynh xin giao trả lại
tôn huynh.
Thủ Bá nói :
- Công phu nuôi dưỡng, cứu sống,
lấy gì báo đáp cho xứng ?
Diện Hổ nói :
- Tôi suốt đời không vợ,
không con, tưởng yêu được người đàn bà trong mộng thì người ấy đã từ giã cõi đời,
tưởng gần mãi được đứa bé kháu khỉnh thì phải giao trả cho người, thôi thì vui
cái niềm vui của kẻ khác vậy.
Thủ Bá nói :
- Nhà tôi còn rộng, xin tôn
huynh hãy về đó cùng nhau ăn ở cho vui.
Diện Hổ đáp :
- Tôi ngại Tiểu Thanh chưa
quen với chỗ ở mới sẽ xin về đó chung sống trong một thời gian để cho cha con
vui vẻ cùng nhau rồi sẽ lên đường.
Đoạn cúi xuống, nhẹ nhàng ôm
lấy Tiểu Thanh vào lòng cùng với Thủ Bá ra khỏi phòng trọ đi về Trúc Sơn.
*
Từ ngày Khải Hùng cùng với Đại
Thường theo Vương Thái Hòa về Dương Châu thấm thoát đã được hai năm. Nhờ sự hướng
dẫn công phu của họ Vương, Khải Hùng thấy rõ được mọi sự biến chuyển ở trong
tình thế lúc ấy và trao dồi được bản lãnh hơn người. Nhiều lần Khải Hùng muốn về
Dương Châu thăm lại quê hương xưa nhưng cụ Thái Hòa không chịu cho phép, bảo rằng
phải dẹp những mối cảm tình phụ thuộc thì mới có thể tập trung ý chí mưu đồ việc
lớn. Dần dần thế lực của Vương Thái Hòa càng ngày càng bành trướng mạnh, khắp
nơi hào kiệt anh hùng kéo về mỗi lúc một mạnh. Đất đai trên núi được khai phá
thành miền trồng trọt phì nhiêu, thành những khu vực chăn nuôi rộng lớn. Từ
trong lòng núi ra đến bên ngoài được bảo vệ bằng những thành lũy thiên nhiên và
cứ một đợt thành trì lại có lớp người trấn thủ, ban ngày thì sản xuất, ban đêm
thì luyện tập võ nghệ.
Cụ Vương Thái Hòa bảo rằng :
- Ta không lấy sự cố thủ làm
chính nhưng phải có chốn tựa nương chắc chắn để mà xuất phát ban đầu, mới bảo
toàn được lực lượng. Sau này, chỗ nương tựa ấy là lòng muôn dân. Được dân đùm bọc,
chở che, ấy là tường đồng vách sắt. Bây giờ phải cố làm sao cho thành một nơi bất
khả xâm phạm, hễ một kẻ nào không phải trong bọn chúng ta tự nhiên đột nhập đều
có thể sa vào cạm bẫy hiểm nghèo.
Một hôm xuống dưới chân núi,
Khải Hùng nhìn thấy đàng xa một người đang quẩy gánh củi, mệt nhọc đi trên đường
đá nhấp nhô. Một lát người ấy ngã khuỵu xuống, thả rơi gánh củi bên đường. Khải
Hùng chạy đến, lấy một cụ già râu tóc bạc phơ, áo quần rách rưới, đang nằm mê
man bất tỉnh. Cúi gần, Khải Hùng giật mình, kêu lên :
- Cụ Thiên Hộ !
Rồi chạy đi tìm nước suối về
đắp mặt cho cụ và đưa cụ vào nghỉ trong một bóng mát. Giây lâu cụ Thiên Hộ mở
choàng mắt ra và nhìn trừng trừng vào mặt Khải Hùng không chớp. Khải Hùng nói :
- Cụ quên cháu rồi sao ? Khải
Hùng đây mà !
Cụ già bỗng ứa nước mắt, run
rẩy mím lại đôi môi già nua để khỏi cất lên tiếng khóc. Lâu lắm cụ mới kêu lên
:
- Khải Hùng ! cháu đã đổi
khác quá nhiều, làm sao mà cặp mắt gần mờ của ta có thể nhận ra cho kịp. Chao
ôi ! Thời gian quá sức vội vàng. Mới cái ngày xưa ta tiễn đưa cháu xuống thuyền
để đi vào một cõi đời vô định, mà đến giờ đây có trên mười năm rồi đó.
Rồi cụ kể lại cuộc đời vất vả
của cụ sau khi Khải Hùng ra đi, nào là cụ bị bắt giam rồi bị hành hạ, dân hai
bên bờ sông Dương Châu bị sự bóc lột khốn cùng, cụ phải đốn củi nuôi sống qua
ngày, mặc dù tuổi già, sức yếu. Cụ Thiên Hộ nói :
- Ta gánh củi nặng ngã xuống
bất tỉnh như thế thường. Nhưng qua một cơn mê mệt ta lại gượng ngồi dậy được.
Nhiều khi ta cũng làm lạ không hiểu tại sao mà mình vẫn còn sống trên đời này.
Hình như trong người của ta vẫn còn ý chí không chịu thất bại dù cho gục ngã
hoàn toàn. Ngày con ra đi ta rất lo lắng nhưng sau ta lại nghĩ rằng dù con còn
nhỏ nhưng con đã thấy được những sự thật tàn nhẫn rất sớm chắc con có thể nên
người.
Khải Hùng bèn kể lại cho cụ
nghe mọi việc xảy ra từ trước đến giờ. Xong, Khải Hùng nói :
- Cụ ở lại đây với cháu cho
yên tuổi già.
Nhưng cụ Thiên Hộ lắc đầu :
- Không được, không được. Ta
hiểu ý tốt của cháu nhưng ta không thể xa rời thôn xóm của ta với những bà con
láng giềng quen thuộc, với bao nhiêu là kẻ khổ cùng ta chia đắng xẻ bùi trải đã
bao năm. Ta ở lại đây chỉ làm phiền nhiễu nhiều người và bận lòng thêm cho
cháu. Để ta trở về với nếp sống cũ của ta, trở về cuộc sống vui buồn như biết
bao người gần gũi quanh ta. Ta không thể nào xa rời họ được. Ta sẽ đem về cái
tin vui này để gieo rắc niềm tin ở trong lòng họ về cái ngày mai sẽ đến.
Rồi ôm Khải Hùng vào lòng rất
lâu, cụ mới loạng choạng đứng lên, đi lại chỗ gánh củi ngã. Cụ nói :
- Ta luôn tin rằng cuộc đời
càng ngày càng đẹp hơn lên nếu lòng con người không ngừng cố gắng. Thôi ta về,
con hãy ở lại theo đuổi chí lớn. Ráng làm sao cho cái miếu thờ loài thủy quái
bên bờ Dương Châu bị đập phá đi mà thay vào đấy cái bia kỷ niệm những kẻ đã vì
đồng loại, đồng bào mà chịu hy sinh.
Khải Hùng bèn đỡ gánh củi
lên vai và đưa cụ đi một quãng rất xa rồi mới bùi ngùi mà từ biệt cụ.
*
Từ ngày Diện Hổ trở về Trúc
Sơn thì Hàn Thủ Bá lấy làm vui lắm, bởi đã từ lâu sống cảnh cô độc, lại thêm
tính nết biếng lười, Thủ Bá sinh ra buồn chán ở trong tòa nhà rộng lớn của
mình. Nay được Diện Hổ là người vui tính lại thích hoạt động gần gũi sớm trưa,
Thủ Bá như được chuyển tiếp sinh lực dồi dào, càng thấy hăng hái. Ban ngày thì
Diện Hổ lặn lội khắp vùng quan sát địa thế, tìm hiểu tình hình, ban đêm cùng
Hàn Thủ Bá luyện tập võ nghệ, chuyện vãn đến khuya mới nghỉ. Những khi vắng mặt
như vậy, Diện Hổ cũng muốn tạo dịp cho bé Tiểu Thanh quen với Thủ Bá để nó hòa
hợp với không khí gia đình. Thủ Bá, sau những khi đọ sức thử tài với Diện Hổ
càng nhận thấy rõ bản lĩnh của mình còn kém thua xa cho nên hết sức nể bạn. Nhất
là thấy Diện Hổ thương yêu Tiểu Thanh rất mực mà lại sẵn sàng tìm đến để cho
cha con đoàn tụ thì rất lấy làm kính mến.
Một hôm Diện Hổ cáo từ ra
đi, Thủ Bá cảm thấy bùi ngùi, giữ lại :
- Đại huynh bây giờ định đi
về ngả lối nào ? Không nhà, không cửa, không con, đại huynh cứ mãi trôi giạt
phiêu lưu cho đến bao giờ mới dừng bước được, chi bằng ở lại đây, vui sống
tháng ngày để cho nhàn hạ tấm thân.
Diện Hổ nói :
- Không, bây giờ con đường
tôi đi không phải dẫn về một nơi vô định mà đã hướng theo một lý tưởng rồi. Tôi
rất khao khát không khí thái bình yên vui nhưng tôi tự xét mình không có quyền
chỉ lo cho bản thân mình mà quên trăm họ lầm than. Chỉ tiếc hiện nay không có
phương tiện để mà vùng vẫy ở cái đất này.
Thủ Bá hỏi :
- Nếu như đại huynh không
chê tôi là vô dụng thì xin đại huynh dạy bảo cho tôi đặng rõ.
Diện Hổ bèn kể lại các sự
tình từ trước đến khi gặp Vương Thái Hòa ở tại Hồi Giang rồi nói :
- Mấy lần cũng định bàn với
đại huynh điều này nhưng thấy đại huynh đã quen lối sống nhàn hạ, sợ rằng chỉ
làm đại huynh thêm phiền lòng nghe mà chẳng ích gì.
Thủ Bá hăm hở nói :
- Tôi là một kẻ ngủ mê chứ
chưa phải là một cái xác chết. Có người đánh thức thì biết vùng dậy, đâu có ngại
gì. Xin đại huynh hãy ở lại đây thêm một thời gian, tôi xin vì đại nghĩa, vì đại
huynh mà giao cái mạng sống này, chẳng có mảy may luyến tiếc.
Diện Hổ nghe nói cả mừng,
bèn ở nán lại Trúc Sơn và đem những điều dự định xưa nay để cùng Thủ Bá bàn bạc.
Thủ Bá tỏ ra hết sức phấn khởi, vội vàng sắp đặt công việc củng cố miền đất
Liêu Giang, thâu nhận anh hùng hào kiệt, tích trữ lương thực, nghe ngóng dư luận,
dò xét tình hình, mọi việc đều lo thực hiện hết sức chu đáo.
Một đêm trước khi ra đi, Diện
Hổ bảo với Thủ Bá :
- Nếu nghĩ suy cho kỹ việc đời,
tôi thấy mình không hề bị thua thiệt điều gì. Ngày trước tôi phải mất nàng Hồng
Diệp thì tôi lại có đại huynh. Tôi tin mình sống chân thành thì không bao giờ
phải chịu thua thiệt mà bất cứ là hoàn cảnh nào cũng vẫn có niềm an ủi. Thôi,
xin từ giã đại huynh, một ngày gần đây ta lại gặp nhau. Mong sao đất Liêu Giang
có đủ sức mạnh để sớm đem lẽ phải về cho muôn dân.
Dứt lời, Diện Hổ lao mình
vào bóng tối, phi thân nhắm hướng kinh thành thẳng tới.
Ba ngày sau, Diện Hổ đến
kinh đô thì trời vừa tối. Tìm một quán trọ nghỉ ngơi, đến khuya thì Diện Hổ thức
dậy, bước ra khỏi phòng. Trời không có trăng lại bị mây mờ che phủ cho nên đêm
tối mờ mịt. Diện Hổ nhớ ngày hôm nay Hồng Diệp lìa đời nên chuẩn bị sẵn hương
đèn để viếng mộ nàng. Qua khỏi mấy khu phố xá, đi vào một con đường vắng vẻ, Diện
Hổ tìm đến nghĩa trang nằm cạnh bờ sông. Không khí âm thầm, quạnh quẽ giữa lúc
về khuya càng làm quang cảnh nghĩa trang thêm phần bi thảm.
Diện Hổ vừa tiến tới nơi mộ
nàng Hồng Diệp thì bỗng dừng lại. Trong đêm, cháy sáng những ngọn hương soi lờ
mờ một bóng người ngồi. Hình như người này đã ngồi rất lâu như thế và đắm chìm
trong trầm ngâm nghĩ ngợi nên không cử động chút nào. Diện Hổ đang phân vân
không biết nên tiến hay nên lùi thì người kia chợt quay đầu lại và một giọng
quen thuộc cất lên :
- Tiêu đại huynh !
Diện Hổ không nén được lòng
mừng chạy lại :
- Trời ! Trịnh đại ca !
Và Diện Hổ ngồi xuống bên cạnh
Trịnh Thiết Hào nói tiếp :
- Ai ngờ lại gặp đại ca ở
đây. Đã mấy mươi năm rồi, lần nào đến ngày kỵ giỗ của nàng tôi cũng đến thăm
nhưng không hề gặp một ai. Nếu trước kia mà gặp đại ca nơi đây biết đâu có sự
chẳng lành xảy ra.
Thiết Hào chậm rãi nói :
- Nếu gặp nhau thế nào tôi
cũng nhường nhịn đại huynh và chúng ta sẽ không bao giờ đổ máu vì một người đàn
bà. Từ khi Hồng Diệp lìa đời tôi không dám đến thăm mồ bởi vì tôi vẫn chưa tìm
ra kẻ lấy cây thước sắt của mình để giết chết nàng.
Diện Hổ nói :
- Mấy mươi năm đã qua rồi và
mái đầu chúng ta đều bạc, chỉ riêng Hồng Diệp là còn trẻ mãi ở trong kỷ niệm.
Thiết Hào nối lời :
- Và hai kẻ già nua là chúng
ta đây ngoài lý tưởng chung còn gần gũi được với nhau là bởi vì nàng.
Diện Hổ gật đầu rồi nói :
- Trước kia tôi cứ tưởng rằng
cùng thương một người đàn bà là tạo nên sự nghịch thù. Bây giờ mới rõ, sự thực
trái hẳn những điều mình tưởng. Hay là vì nàng chết cho nên lòng ta mới dễ
khoan dung, mới dễ hòa hợp ?
Thiết Hào trả lời :
- Không, Đại huynh không nên
nghi ngờ như vậy. Dù nàng còn sống, tôi vẫn không bao giờ nhìn người yêu nàng với
cặp mắt nghịch thù. Tôi chắc rằng khi tôi đã yêu nàng thì cũng mến yêu được kẻ
yêu nàng và kẻ được nàng yêu mến.
Diện Hổ ngồi yên, không nói.
Gió khuya hiu hắt, trở lạnh. Đốt xong tuần hương, Diện Hổ đem việc của Hàn Thủ
Bá kể lại cho Thiết Hào nghe rồi nói :
- Tôi phải giã từ Thủ Bá
trong lúc đêm hôm vì đợi Tiểu Thanh an giấc rồi mới lên đường, chỉ sợ lưu luyến
trong lúc ra đi.
Thiết Hào nắm tay Diện Hổ,
nói :
- Đại Huynh vui bằng niềm
vui kẻ khác suốt đời. Thương cho đại huynh mà cũng mừng cho đại huynh. Bây giờ
đêm đã gần tàn, chúng ta từ giã. Chắc ngày gặp lại cũng không xa gì. Vương Thái
Hòa đã đến thăm tôi và cho biết rõ miền Mã Đài Sơn đã có lực lượng mạnh mẽ. Hồi
Giang, Liêu Giang đều được vững vàng thì bọn gian thần, bạo chúa chóng chầy
cũng bị tiêu diệt.
Nói xong Trịnh Thiết Hào từ
biệt Diện Hổ mà về Hồi giang.
Tối hôm sau, đợi cho kinh
thành an giấc Diện Hổ mới phi hành đến nhà An Dương Hầu. Lên đến dãy lầu ở
chính tư dinh, Diện Hổ nom thấy từ xa có một bóng đèn thấp thoáng ở dưới chân
thành. Đến gần nhìn xuống thấy một lính canh xách ngọn đèn lồng. Diện Hổ bèn
rút kiếm, nhảy xuống trước mặt. Người lính chưa kịp kêu lên thì Diện Hổ đã đưa
gươm vào cổ bảo khẽ :
- Hãy chỉ cho ta biết rõ tên
An Dương Hầu ở tại phòng nào.
Tên lính khiếp hãi, ú ớ chưa
kịp trả lời thì Diện Hổ đã bảo :
- Dẫn đường mau lên chớ khá
chần chờ.
Và Diện Hổ đẩy người lính đi
trước. Sau mấy chục vòng luồn qua các dãy hành lang tên lính dừng lại trước một
cửa phòng, rồi nói :
- Đây là phòng ngủ của An tướng
công.
Diện Hổ bèn trói người lính
lại, rồi tháo một vòng dây thắt lưng nhét kín miệng, bỏ nằm ở một góc tường.
Diện Hổ nói :
- Hãy cứ ngủ kỹ, khi nào ta
xong công việc thì ta cởi trói cho mày.
Xong, Diện Hổ phi thân lên
tường, chuyển lên mái ngói, và lách mình vào một khung cửa vòng nguyệt ở trên
thượng tầng.
Bên trong một ngọn đèn tọa
đăng ở giữa soi sáng cả một gian phòng trưng bày hết sức lịch sự. Một người mái
tóc bạc phơ đang ngồi đọc sách ở chiếc trường kỷ chạm trổ công phu.
Nhẹ nhàng, Diện Hổ thả mình
rơi xuống sàn nhà không một tiếng động. Đến gần sau lưng người ấy, Diện Hổ khẽ
cất tiếng nói :
- Kính chào tướng công.
Lập tức người già quay đầu lại
và chực kêu lên thì Diện Hổ đã khoa lưỡi gươm trước mặt :
- Ta biết ở chung quanh đây
có những ai rồi. Nhưng trước khi thủ hạ của ngươi kéo đến thì ta có thể giết chết
nhà ngươi. Song ta bảo thật điều này : ta không muốn lưỡi gươm ta phải dính máu
người già cả. Vậy hãy nói thật cho ta biết rõ : hiện nay các ngươi âm mưu những
gì trong sự phản loạn ? Ngoài nhà ngươi ra còn có những ai ? An Dương Hầu, nếu
nhà ngươi nhất định giữ điều bí mật thì ta bắt buộc phải mang ngươi về trang trại
của ta.
An Dương Hầu nhìn chăm chăm
vào Tiêu Diện Hổ rồi mới từ từ hỏi lại :
- Nhà ngươi là ai ?
Diện Hổ đáp :
- Là kẻ đang muốn tìm biết tất
cả sự thực mà ta chờ đợi nơi ngươi.
An Dương Hầu đáp :
- Những kẻ như ta không thể
khai báo với hạng tiểu tốt vô danh.
Diện Hổ nén giận đáp lại :
- Nếu nhà ngươi không đáp
thì ta mượn lấy chiếc đầu của ngươi để giữ làm vật kỷ niệm.
An Dương Hầu đứng lên, chỉ
tay vào ngực, ngạo nghễ hỏi lại :
- Mày biết ta là ai không ?
Diện Hổ mỉm cười khinh bỉ trả
lời :
- Ta biết rõ ngươi nên mới đến
đây hỏi tội nhà ngươi. Đừng có ỷ là địa vị cao sang mà lại lên mặt hống hách,
coi thường thần chết. An Dương Hầu, nhà ngươi có cần ta nêu lên đây tội ác của
ngươi không ? Tội ác chất chồng đã biết bao năm do sự hiểm ác của ngươi gây ra
! Ta đã biết được nhà ngươi âm mưu toan tính những gì nên mới đến đây hỏi tội.
Ta muốn cái chết có tới cùng ngươi cũng là vì lẽ công bằng. Vậy hỏi thực ngươi,
bè lũ các ngươi âm mưu hại những người trung trực trong triều, dự định những gì
? Các ngươi mưu toan lật đổ ngai vàng ra sao ? Đừng tưởng rằng ta không biết mà
hòng che kín sự thật ?
An Dương Hầu ra vẻ suy nghĩ
rồi đáp :
- Thế ra ngươi đã biết rõ ý
định của ta, ta không còn giấu làm gì. Được lắm ta sẽ cho ngươi biết cả những
điều bí mật. Trước hết để ta giao lại cho ngươi một phần tài liệu...
Nói xong An Dương Hầu quay
lưng, tiến lại một phía tủ lớn, có vẻ hết sức vội vàng. Nhưng Diện Hổ đã nhảy đến
nắm lấy cổ áo giằng lại. Diện Hổ cười lớn :
- Đừng hòng lập mưu trốn
thoát. Ta biết cái tủ của ngươi có chứa những gì trong ấy. Và sau cửa tủ có những
con đường độc đạo thế nào. Hãy ngồi xuống chiếc trường kỷ và trả lời từng câu hỏi
của ta.
Nói xong Diện Hổ ấn An Dương
Hầu ngồi xuống chiếc ghế cạnh đấy. An Dương Hầu có vẻ miễn cưỡng nghe theo. Diện
Hổ cười lạt rồi nói :
- Thôi được, ta không cần hỏi
nhà ngươi để nghe những lời dối quanh vô ích mất cả thì giờ vàng ngọc của ta.
Ta sẽ tìm lấy tài liệu của ngươi chôn giấu trong nhà.
Nói đoạn, trói An Dương Hầu
vào ghế, cắt lấy vạt áo của y mà nhét lấy miệng, rồi đi lục lạo trong phòng. Diện
Hổ lôi dần trong các tủ chính những giấy tờ bí mật của gã liên lạc với các đồng
bọn, đọc hết một lượt rồi đem bỏ lại chỗ cũ. Xong Diện Hổ tiến lại nơi chiếc tủ
lớn ở cuối gian phòng, vừa đẩy cánh cửa, bỗng nghe một tiếng động lớn và đất dưới
chân như sụp hẳn đi, đồng thời bị rơi vào một hố sâu bốn bề có những song sắt
chắn giữ. Sau sự choáng váng ban đầu, Diện Hổ định thần trở lại và biết mình
đang vào trong cạm bẫy của An Dương Hầu. Diện Hổ cố sức lay các chấn song sắt
nhưng càng lay mạnh thì lại bị đẩy xuống dần, xuống dần đến một ngục tối có mùi
tử khí xông lên khó thở.
Chỉ một lát sau thì Diện Hổ
cảm thấy mệt mỏi muốn ngủ thiếp đi. Khi tỉnh giấc Diện Hổ thấy mình bị trói và
nằm trong một phòng giam sáng sủa, bên ngoài có nhiều người lính canh gát cẩn mật.
Trời đã sáng tỏ, hình như mặt trời đã lên cao rồi.
Một lát, An Dương Hầu hiện
ra ở trước khung cửa, vẻ mặt già nua điểm một nụ cười nham hiểm. An Dương Hầu
ngắm nhìn Diện Hổ một lát rồi nói :
- Quân súc sinh ! Ta sẽ bắt
mày khai rõ bè lũ của mày. Trước khi mày về cõi chết, hãy cho mày ném gia phẩm
của tao. Nào cực hình đâu, hãy đem thằng gian tặc này xử liệu cho nó biết tay !
Lập tức, quân lính dạ rân và
Diện Hổ nhìn thấy nhiều người mang đến nào cùm kẹp, nào lửa đỏ, nào roi sắt, dắt
ở trước cửa phòng giam.
Diện Hổ cười lạt, đáp lại :
- An Dương Hầu ! Mày đừng dại
dột nghĩ rằng những người như tao lại sợ những trò trẻ con của cái lũ mày. Bày
đặt những trò độc ác để hủy hoại thể xác kẻ khác hầu mong khuất phục tinh thần
của họ là đều mong mỏi của lũ trẻ con chưa sạch chất sữa trên mồm. Chết một
ngàn lần tao cũng không cho mày biết tao đây là hạng người nào. An Dương Hầu, bộ
mặt thực của mày là những cực hình này đây chứ không phải là những lời đạo đức
giả dối mày thường mở miệng hàng ngày. Không có cách gì khác hơn cho mày thấy
được sự thực ngoài cái sức mạnh cực hình ! Ha ! Ha ! Cực hình lại là ân nhân của
mày ! Thì ra mày đã được những cực hình che chở cho cái mạng mày, bởi vì không
còn ai tin mày nữa để cho mày nghe sự thực. Nhưng đừng ỷ vào cực hình mà rước lấy
sự thất bại. Tao sợ lẽ phải, chớ không sợ sự tra tấn.
An Dương Hầu lạnh lùng không
nói lời nào, phất tay ra lịnh. Diện Hổ bị một lũ người xúm lại kéo ra hành hạ đủ
điều. Cố nén đau đớn Diện Hổ bền gan chịu đựng, nhưng sau nhiều lần nếm trải cực
hình người như tê liệt hẳn đi và Diện Hổ mê man như một xác chết.
Đến khi tỉnh dậy Diện Hổ
không rõ mình đang nằm ở nơi nào vào lúc giờ nào. Chung quanh vắng lặng y như một
bãi tha ma. Sờ trong bóng tối Diện Hổ biết mình nằm trên mặt đất bốc mùi ẩm ướt.
Một lát, vừng trăng từ từ hiện lên và soi sáng một vùng âm u có những thành dài
bao bọc. Diện Hổ cảm thấy trong mình vô cùng đau đớn và cố cử động để cho cơ thể
bớt bị tê liệt. Đoán mình đã được tỉnh lại nhờ nơi đất ẩm, Diện Hổ cố sức định
thần thu hết tàn lực ngồi dậy hầu mong tìm chốn thoát thân nhưng khó nhọc lắm mới
lê mình nổi. Diện Hổ biết mình chịu đói nhiều hôm nên không còn sức chịu đựng,
một lát phải nằm lả xuống.
Bỗng qua mí mắt hé mở chập
chờn, Diện Hổ nom thấy những điểm sáng nhỏ li ti run rẩy trước mắt. Định thần
nhìn kỹ Diện Hổ trông thấy rõ một người già cả lom khom đi đến, trên tay cầm một
nắm hương. Người ấy đến gần và đó là một bà già tiều tụy. Diện Hổ nằm yên,
không nói năng gì, chờ xem động tĩnh ra sao.
Người đàn bà tiến đến bên cạnh,
thành khẩn quì xuống và cắm nén hương cháy sáng trên đầu Diện Hổ. Khi những tiếng
khấn vái bắt đầu cất lên lâm râm thì Diện Hổ cố gắng chỗi dậy. Người đàn bà hốt
hoảng tưởng gần té ngã ra sau. Diện Hổ nói :
- Thưa cụ, tôi vẫn chưa chết,
xin đừng sợ hãi !
Bà cụ tỉnh lại, nói như kêu
lên :
- Trời ơi ! ông còn sống được
hay sao ?
Diện Hổ bèn hỏi :
- Đây là nơi nào ?
Bà cụ đáp :
- Đây là khu đất hoang dùng
làm nghĩa địa để chôn những người bị An Dương Hầu hãm hại. Quân lính tưởng ông
chết rồi nên bỏ xác ra đây, ngày mai mới tính đến việc chôn cất.
- Thế cụ là ai ?
Bà cụ ngồi im, không nói.
Giây lâu cụ mới quay nhìn ra sau có vẻ sợ hãi rồi khẽ trả lời :
- Tôi là một người nô tỳ của
An tướng công. Tôi bị bán vào nhà này từ nhỏ, suốt đời hầu hạ ở đây. Bây giờ
già nua, vô dụng, An tướng công đuổi ra canh chừng xác chết chưa chôn nơi hoang
địa này.
- Cụ có con cái gì không ?
Bà cụ lại ngồi im không nói.
Lâu lắm cụ mới đáp lại bằng một giọng mơ hồ :
- Có một đứa con, đã trên
vài mươi năm rồi, khi tôi về mạn Dương Châu trốn loạn kinh thành. Nó ở lại với
chồng tôi sinh trưởng vùng đó. Chúng tôi nghèo khổ không thể gần nhau trọn kiếp.
- Thưa cụ, ở đây có ngã nào
thoát ra ngoài được không ?
Bà cụ trợn mắt nhìn Diện Hổ
rồi nói :
- Ông đi làm sao nổi với cái
thân hình khốn khổ thế kia ?
- Tôi sẽ cố gắng. Thà là chết
ở ngoài kia còn hơn chết ở trong này.
Bà cụ có vẻ nghĩ ngợi rồi
nói :
- Đã ba năm nay trông chừng
nơi đây, tôi chưa gặp một kẻ nào sống sót. Nay gặp được một mạng sống, lẽ nào
không cứu cho người. Ở đây tường vách che đậy không ai có thể lui tới, chỉ trừ
một cánh cửa nhỏ ăn thông với dãy nhà sau để cho quân lính đưa xác chết vào và
tôi lui tới thăm chừng. Nay chỉ có cách ra bằng lối ấy. Thôi được, tôi sẽ dẫn lối
cho ông đến được thành ngoài tránh các trạm gát. Nhưng làm sao đi thoát khỏi cổng
thành ?
Diện Hổ nói :
- Cụ có gì cho tôi ăn không
? Nếu tôi có gì đỡ lòng thì tôi có thể tìm lại ít nhiều sức lực.
Bà cụ đáp :
- Được, ta sẽ lần mò về bếp
kiếm những cơm thừa cho ông.
Diện Hổ hỏi :
- Gần nơi cổng thành có một
chuồng ngựa nào chăng ?
Bà cụ trả lời :
- Có hai chuồng ngựa hai bên
cho lính tuần phòng.
- Thế thì xong rồi, không ngại
gì cả. Chỉ ngại tôi thoát khỏí đây, cụ sống có yên không ?
Bà cụ trầm ngâm rồi đáp :
- Miễn là ông đi cho thoát
là tôi mừng lòng. Còn tôi e rằng chúng không để yên tôi đâu. Nhưng Bạch Tuệ này
trọn kiếp tôi đòi không làm ích lợi cho ai, nay cứu được một mạng người là điều
vui sướng không còn ước ao gì nữa.
Diện Hổ nói :
- Tôi có bà con ở gần Dương
Châu hay cụ sẽ cùng đi với tôi về đó.
Bà cụ lắc đầu rồi đáp :
- Không nên. Đã khó cho ông
đi thoát, mà về Dương Châu chưa chắc tôi gặp lại được người cũ. Còn sợ quan
trên tuân lệnh An Dương Hầu truy nã khó yên. Trước kia tôi đã cố trốn nhiều lần
mà không trốn khỏi.
Diện Hổ nói :
- Cụ không nên ngại ngùng
gì. Tôi được ăn no lấy lại sức khỏe và có ngựa hay, không ai có thể làm gì tôi
được. Cụ về Liêu Giang mà sống với bạn bè tôi rồi sẽ dò hỏi, nếu như gia đình ở
mạn Dương Châu còn đó thì tôi sẽ đưa cụ đến. Cụ không sợ gì bè lũ quan trên. Một
ngày gần đây bè lũ An Dương Hầu sẽ đền tội ác. Khắp miền Liêu Giang, Hồi Giang,
Dương Châu trong vòng che chở của chúng tôi đây xin cụ chớ ngại. Không nên ở lại
làm mồi cho lũ sài lang, mạng sống của cụ mới là đáng quí.
Bà cụ có vẻ suy nghĩ rồi nói
:
- Thôi được, tôi sẽ lấy cơm
cho ông ăn đã, rồi sẽ liệu định. Biết đâu trọn đời có một dịp này mới mong
thoát khỏi những mùi tử khí vây bọc tháng ngày.
Rồi bà cụ vội vàng đi vào ngả
bếp. Lát sau, đem ra một gói cơm. Diện Hổ ăn xong thấy mình tỉnh táo hẳn lại.
Nghỉ ngơi một lát Diện Hổ đứng dậy, uốn mình, tìm lại sức khỏe bằng cách tập
trung não lực. Xong, Diện Hổ đi theo bà cụ tới cửa, bà cụ quay lại dặn dò :
- Ông nên cẩn thận đừng nói
năng gì.
Diện Hổ đáp lại :
- Cụ cứ yên tâm. Tôi sẽ đưa
cụ thoát khỏi nơi này một cách vẹn toàn.
CHƯƠNG 7 (HẾT)
Mùa xuân năm ấy, trong khi
kinh thành còn đang chưng đèn kết hoa thì An Dương Hầu với lũ quan thần kéo
quân vào phá cung điện bắt vua hạ ngục. Sau ba ngày giam giữ nhà vua bị thắt cổ
chết. An Dương Hầu tôn cháu của Trung Vương lên ngôi, lấy niên hiệu là Định
Vương.
Giữa lúc ấy ở Mã Đài Sơn có
tiếng reo hò chuyển núi suốt mấy ngày liền. Cụ Thiên Hộ ở miền Đà Dương Châu nửa
đêm nghe tiếng reo hò dội đến tai mình, vội nghiêng vành tai già nua hướng qua
vách nứa sơ sài bao nhiêu những lời vang dồn dội lại và mở cặp mắt yếu đuối lờ
mờ nhìn vào trong đêm, lẩm bẩm :
- Sấm động Dương Châu . . .
có lẽ giờ đây mới là sấm thực.
Rồi cụ ngồi mãi suốt đêm, tựa
mình vào vách lắng nghe bao nhiêu náo động từ xa dội đến tai mình. Vách cụ rách
nát cả rồi, mưa gió từng mùa lọt vào tự do đem cái lạnh lẽo của nhiều ngày
tháng vây lấy cuộc đời già cả. Nhưng bây giờ đây, phên vách cũ nát của cụ đón lấy
từ xa muôn tiếng reo hò không bị một sức cản ngăn. Cụ Thiên Hộ tưởng như qua lời
vang động có những giọng hò reo quen thuộc, thân yêu phảng phất những hơi ấm áp
lạ thường. Lòng cụ tự nhiên bừng sáng trở lên như là bầu trời vào tiết mùa đông
u ám mây phủ bỗng chợt có ánh mặt trời hiện dậy xua tan những bóng nặng nề vây
phủ không gian. Sáng hôm sau khắp miền Dương Châu đâu đâu cũng nghe bàn tán về
sự chuyển động ở Mã Đài Sơn và trên bến, dưới thuyền nhiều người tụ tập tạo nên
cái không khí rộn rịp khác thường. Từ miền Liêu Giang, Hồi Giang những khách
thương hồ đi lại cùng nhau bàn tán về cái hiện tượng sôi sục khắp nơi. Người ta
cảm thấy như có sự gì bất an sắp sửa nổ bùng. Ở trong không khí rung chuyển
muôn ngàn xao động và nước sông như reo chảy sẵn sàng dâng ngập cả bờ, hơi gió
ùn ùn tưởng như trở thành những trận cuồng phong lông lốc.
Rồi một sớm, xóm làng như vắng
hẳn đi. Những người trai trẻ biến mất. Từ các ngả miền, gió bụi mịt mờ cuốn
theo những gót người. Những cuộc giao tranh bắt đầu khai trận. Bao kẻ kinh
thành nhốn nháo về quê. Trộm cướp thừa dịp nổi lên đốt phá xóm làng. Cả một sức
sống như quật dậy từ ba miền Dương Châu, Liêu Giang và Hồi Giang rồi lan tràn
khắp nơi bốc lên như luồng vũ bão quét hết khí độc đất trời . . .
Khi sóng yên gió lặng, chỉ
còn những cảnh điêu tàn. Trên bãi chiến trường, lũ gian thần đền mạng phơi thây
giữa nắng mặt trời gay gắt. An Dương Hầu bị người đâm chết vất thây trong dãy
tường cao vây bọc nghĩa địa xưa kia vùi chôn những bậc anh hào mà lão đã từng
tàn sát. Vị vua bất lực Định Vương chết gục ở trên ngai vàng. Máu kẻ nghĩa sĩ
chan hòa viết nên những trang sử đẹp oai hùng.
*
Một đêm trăng sáng, ở trong
quán rượu tại bến Hồi Giang, Trịnh Thiết Hào và cụ Thiên Hộ đang ngồi kể cho
nhau nghe quãng đời xa cách. Cả hai đều đã già lắm và thời gian đã làm cho họ
sâu sắc, thâm trầm gần gũi nhau hơn.
Giờ lâu cụ Thiết Hào nói :
- Mọi việc thế là xong xuôi
cả rồi. Gian thần bị giết, và vị vua sáng suốt anh minh đã được lên ngôi. Cho đến
nàng Bạch Tuệ kia, xa con đã biết bao năm bây giờ cũng đã gặp gỡ được rồi. Chỉ
thương Hải Sơn và Hàn Thủ Bá bỏ mạng ở chốn chiến trường.
Cụ Thiên Hộ hỏi :
- Chừng nào Khải Hùng và
Tiêu Diện Hổ mới trở về đây ?
Cụ Thiết Hào nói :
- Có lẽ sắp về, sau khi chôn
cất xong Hàn Thủ Bá thế nào cũng đem Tiểu Thanh về đây thăm lại chúng ta. À,
còn cái miếu ra sao ?
Cụ Thiên Hộ hỏi :
- Cái miếu nào kìa ?
- Cái miếu trên bờ Dương
Châu mà hiền huynh vừa kể tôi nghe. Cái miếu thờ loài thủy quái đó mà.
Thiên Hộ cười lớn, rồi đáp :
- À… à… ta nhớ ra rồi. Từ sớm
đến giờ nói chuyện lang bang quên mất cái miếu. Nhân dân triệt hạ cái miếu thờ
loài thủy quái tàn hại bao người để thay vào đấy đền thờ Khải Hòa họ Lý người
đã góp phần trừ diệt cho dân một mối họa lớn. Đã nhắc đến cái miếu ấy không thể
không nhắc đến tên Tổng Trấn.
- Tên Tổng Trấn đã giết Khải
Hòa phải không ?
- Chính nó. Khi nghe bốn
phương nổi dậy thì nó cải trang tìm đường trốn thoát. Qua bến Dương Châu nó vừa
xuống đò thì gặp Thiện Hải là người chèo đò ngày xưa đã bị thủy quái cắn đứt mất
một cánh tay. Ra đến giữa dòng, Thiện Hải nhận ra mặt nó, gã bèn dừng sào,
không chèo đi nữa. Tên Tổng Trấn hét : "Chèo gấp cho ta sang bờ bên kia
!" Thiện Hải vẫn cứ làm thinh, ung dung hút một điếu thuốc vấn bằng chiếc
tay còn lại của mình. Giây lâu, Thiện Hải đứng lên, điểm vào mặt nó, bảo rằng :
"Mày đã cải dạng để dấu hình hài Tổng Trấn của mày nhưng không làm sao dấu
được cái giọng hách dịch của tên Tổng Trấn". Lúc ấy tên Tổng trấn mới đưa
mấy nén vàng mà nói : "Thôi chèo gấp cho ta sang bờ bên kia, ta sẽ đãi
ngươi mấy nén vàng này". Thiện Hải hét lớn : "Đồ ác tặc, vàng kia là
của nhân dân đóng góp cho mày chứ đâu phải là mồ hôi, xương máu của mày làm
nên. Đừng hòng đem vàng mà chuộc mạng mày". Tên Tổng Trấn bèn toan sấn đến
nhưng Thiện Hải nắm lấy cây sào bằng cánh tay độc nhất của mình đưa lên và nói
: "Thủy quái ăn mất của ta một cánh tay rồi thế mà mày vẫn còn bênh loài
ác, giết kẻ hiền lương là Lý Khải Hòa. Đáng lẽ mày lâm vào cảnh khốn cùng ta
không sát hại làm gì, nhưng oan hồn của bạn ta không được yên nghỉ lâu nay thì
ai thương đến ? Còn một cánh tay ta vẫn trừ mày. Đây là giữa dòng sông sâu
không ai tiếp cứu cho đâu, đừng kêu vô ích. Hãy xuống dưới nước hoành hành như
loài thủy quái xưa kia". Nói xong lật thuyền cho tên Tổng trấn rơi xuống
sông sâu rồi Thiện Hải bơi vào. Mãi ba ngày sau, cuối bãi Dương Châu mới thấy
xác nó nổi lên. Thế mới rõ : "Bọn ác đều bị ác báo".
Cụ Thiết Hào nói :
- Đúng vậy, nhưng nguyên
nhân là nhờ sức mạnh con người. Nơi đâu con người ý thức đầy đủ được giá trị
mình, được quyền lợi mình, phân biệt được ác và thiện một cách rõ ràng thì cái
lẽ làm ác gặp ác mới được thực hiện. Nếu không, thì biết bao nhiêu kẻ thiện đã
phải ngậm ngùi mà bị chà đạp.
Cụ vừa dứt lời, Khải Hùng và
Diện Hổ cùng với Tiểu Thanh đi vào. Mọi người hết sức mừng rỡ.
Cụ Thiên Hổ hỏi :
- Thế mẹ cháu đâu ?
Khải Hùng đáp :
- Mẹ cháu không được khỏe
nên còn nghỉ ở Trúc Sơn. Hàn Tiên Sinh trước khi lìa trần có giao quyền cai quản
Trúc Sơn cho bác Tiêu đây, bác Tiêu muốn nhờ mẹ cháu trông nom, chừng nào mẹ
cháu khỏe sẽ sang viếng thăm các bác.
Mọi người quây quần vui vẻ
chung quanh bàn tiệc dọn sẵn. Yến Nhi gặp lại Tiểu Thanh lòng mừng vô hạn. Khải
Hùng không dấu được sự cảm xúc khi thấy Yến Nhi đã lớn, dịu dàng, xinh đẹp
nhưng vẫn giữ được những vẻ hiên ngang của con nhà võ.
Bỗng một lá ngô đồng rơi vào
giữa tiệc. Cụ Thiết Hào cười bảo :
- Vương Tiên Sinh tới đây rồi.
Thật là đúng hẹn.
Phút chốc Vương Thái Hòa bước
vào, mọi người vui mừng chào đón. Giữa tiệc họ Vương cười bảo :
- Khải Hùng đóng góp rất nhiều
cho cuộc chiến đấu vừa qua. Tôi muốn nhân bữa tiệc này đứng làm mai mối nối liền
nhân duyên hai họ Lý, Trịnh, chẳng hay quí vị có chấp thuận không ?
Tiêu Diện Hổ nói :
- Thực là ý kiến hợp lý
không biết chừng nào. Giòng dõi võ hiệp không nên để cho tuyệt diệt mà phải
giúp cho nên vợ chồng để có con cháu lưu lại đời sau. Không rõ đàng gái thế
nào, chứ đàng trai này rất là ưng ý rồi đó. Chúng ta nên hỏi Yến Nhi, kẻo lại
bày sự hôn nhân cưỡng ép e rằng chú rễ cũng khó lòng mà gần được cô dâu.
Cụ Thiết Hào nói :
- Hai kẻ đã gần nhau lâu, có
thể rõ tính tình của nhau. Chúng ta là những người đã mệnh danh võ hiệp, chống
kẻ quyền thế áp bức, tiêu diệt bè lũ gian tà, lẽ nào trong việc xây dựng hạnh
phúc con cái ta lại áp bức chúng sao ! Vậy hãy để tôi hỏi lại Yến Nhi… Này, Yến
Nhi, con có bằng lòng không nào ?
Yến Nhi cúi đầu xuống bàn,
đáp rất nhỏ nhẹ :
- Tùy cha định đoạt, con
không thể tự mình quyết định được đâu.
Nói xong bẽn lẽn chạy vào
trong nhà.
Diện Hổ cười nói :
- Không biết tức là biết rồi.
Đó là ngôn ngữ của các cô gái.
Cụ Thiên Hộ cũng cười nói :
- Thế ra có thừa võ nghệ cao
cường mà vẫn không hề thay đổi bản chất dịu dàng của người phụ nữ. Hay lắm ! Tốt
lắm !
Mọi người nhìn nhau và cười
vui vẻ.
VŨ THIÊN LÝ
.
No comments:
Post a Comment